15:24 09/04/2021 Theo các kết quả nghiên cứu, nguồn lợi thủy sản ở vùng ven biển, ven sông Hải Phòng, ngoài những đặc điểm chung của nguồn lợi vịnh Bắc Bộ, còn có những đặc trưng vượt trội nhờ tính đa dạng sinh học cao từ sự ưu đãi của thiên nhiên. Tuy nhiên mấy năm gần đây, nguồn thủy sản vùng bờ của Hải Phòng ngày càng cạn kiệt, nguyên nhân được cho là các vùng bãi ươm, bãi đẻ của các loài thủy sinh đang bị thu hẹp...
Vùng rừng ngập mặn ở Tràng Cát (Hải An) đang bị ô nhiễm nặng bởi nguồn nước thải đổ ra từ đất liền
Những năm gần đây, công tác quản lý tài nguyên vùng bờ, vùng bồi ven sông ven biển Hải Phòng bộc lộ không ít bất cập. Những vụ việc gây mất an ninh trật tự trong việc tranh chấp bãi nuôi ngao, quyền khai thác mặt nước đã gây nhiều bức xúc trong dư luận.
Riêng sự phức tạp của mối mâu thuẫn này cũng đã phản ánh được phần nào những giá trị to lớn mà vùng bờ Hải Phòng mang lại. Trong đó thủy sản là một nguồn lợi mang tính truyền thống cao, đã gắn bó bao đời nay với nhiều người dân thành phố.
Theo số liệu thống kê, toàn bộbờ biển Hải Phòng có chiều dài trên 125 km, với gần chục cửa sông lớn đổ ra từ đất liền, tạo một vùng nước và đất ngập lợ ven biển, ven sông gắn liền với các nguồn thủy sản mà nhiều vùng bờ khác trong cả nước không có.
Quỹ đất ngập nước ven biển của thành phố tới 24,58 nghìn hec-ta, bao gồm các vùng đất ngập triều với gần 20 nghìn hec-ta, ngoài ra, còn có các bãi bồi cát không ngập triều chắn ngoài cửa sông. Chưa kể tới 24 nghìn hec-ta mặt nước của những cửa sông, luồng lạch, tùng, áng, vùng, vịnh... mang lại lợi thế ưu đãi phát triển đa ngành, mà nuôi trồng, khai thác thủy sản chỉ là một ví dụ điển hình.
Yếu tố địa hải chất này đã tạo cho Hải Phòng một vùng bãi đẻ, bãi ươm nuôi tự nhiên các loài thủy sản, có mật độ phân bố thuộc diện cao nhất của cả vùng duyên hải Bắc Bộ.
Những năm qua, khi nhu cầu tiêu thụ tăng cao, thì việc khai thác lợi thế vùng bờ và vùng nước được chú trọng nhiều hơn, với các dạng hình thích ứng.
Do đặc thù địa lý, nếu như các vùng ven biển như Cát Hải, Hải An, Dương Kinh, Kiến Thụy chủ yếu được khoanh vùng nuôi trồng các loại tôm, cá, tu hài, ngao, rau câu... thì vùng bồi phía cửa sông Lạch Tray, Văn Úc và Thái Bình phần lớn được chia thầu, khai thác nguồn lợi tự nhiên, đáng kể nhất là các loại cá nước lợ, tôm trà, tôm rảo, các loại họ cua và rươi... và ươm nuôi nhuyễn thể khác.
Nhiều người dân đánh bắt ven bờ sử dũng những dụng cụ có tính chất hủy diệt tái tạo như lờ bát quái.
Được thiên nhiên ưu đãi như vậy, nhưng dường như Hải Phòng chưa thực sự trở thành một thương hiệu lớn, với vai trò là một trung tâm khai thác, chế biến thủy sản ven bờ của khu vực.
Trong khi đó, các kết quả nghiên cứu gần đây cũng như thực tế đã cảnh báo, nguồn lợi thủy sản vùng bờ của Hải Phòng đang ngày càng cạn kiệt, có rất nhiều nguyên nhân, nhưng tựu chung tất cả đều xuất nguồn từ yếu tố con người.
Chẳng hạn việc sử dụng các công cụ, những sáng tạo mới để tăng sản lượng thể hiện tính vô trách nhiệm của người đánh bắt như dùng lưới vét mắt nhỏ, thuốc độc cyanua, kích điện, “lờ bát quái”… không những tận thu cả những sinh vật còn quá nhỏ, mà còn “triệt” luôn cả đường sinh nở.
Ở những vùng lợ cửa sông, diện tích bãi bồi bị chia nhỏ vô tội vạ, phục vụ cho các mục đích thuê thầu.
Quá trình phát triển các ngành kinh tế khác cũng đặt Hải Phòng vào một sự lựa chọn không dễ dàng.
Chẳng hạn để có được khu công nghiệp Đình Vũ thì quận Hải An đã phải đánh đổi hàng nghìn héc-ta mặt nước, hoặc như dọc tuyến đê biển thuộc các phường Anh Dũng, Hải Thành, Tân Thành (Dương Kinh) đến Ngọc Xuyên (Đồ Sơn), thời điểm lớn nhất diện tích ươm nuôi thủy sản lên tới trên 700 hec-ta, đến nay thu hẹp lại chưa còn một nửa, dành đất cho các dự án công nghiệp, du lịch.
Chưa kể ở các triền sông, triền biển, bãi cát bồi bị khai thác triệt để phục vụ xây dựng các dự án công trình, cũng ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sinh sản tự nhiên của sinh vật nước.
Ở một góc độ khác, vấn đề lớn nhất hiện nay mà nguồn lợi thủy sản vùng bờ Hải Phòng đang bị xâm hại có lẽ là ô nhiễm môi trường, nhất là khu vực các cửa sông có bị tác động từ nguồn dầu thải của các tàu ra vào cảng, nhiễm nguồn nước thải từ các khu công nghiệp.
Cùng với đó là ô nhiễm đục nước, kết quả của nạn phá rừng phòng hộ và xói lở, chỉ tính riêng vùng cửa sông Cấm, hàm lượng phù sa đã tăng từ 20 g/m3 lên 340 g/m3 trong vòng mấy chục năm qua. Trong khi đó, việc quy hoạch vùng bờ không phát huy được hiệu quả, đang rất manh mún giữa các dự án đầy mâu thuẫn của công nghiệp – dịch vụ - thủy lợi – nông nghiệp và thủy sản.
Như vậy có thể thấy, nguồn lợi thủy sản vùng bờ, vùng bồi Hải Phòng đang đứng trước những nguy cơ lớn, từ chính việc khai thác nội ngành đến các mâu thuẫn trong mục tiêu khai thác ngoại ngành khác, điều này đang đặt ra một bài toán nan giải giữa khai thác và bảo tồn.
Những năm gần đây, nội dung này đã được thành phố đánh giá sâu sắc, nhiều hạn chế đã được chỉ rõ, được nhắc đến nhiều nhất chính là việc quy hoạch không gian vùng nước, vùng bờ, vùng bồi. Từ tháng 10-2017, UBND TP có Quyết định số 2658/QĐ-UBND về việc tạm giao quản lý hành chính khu vực ven biển giữa các quận, huyện Đồ Sơn, Dương Kinh, Hải An, Cát Hải, Kiến Thụy.
Nuôi thả thủy sản bằng lồng bè ở huyện đảo Cát Hải
Mặc dù chưa phải chiến lược dài hạn và quy mô tổng thể, nhưng đây cũng là động thái rất có ý nghĩa, góp phần lập lại trật tự trong lĩnh vực quản lý vùng bờ, vùng bồi ven sông ven biển.
Về lâu dài, nhiều ý kiến cho rằng thành phố cần xây dựng một chiến lược toàn diện hơn, từ quản lý khai thác nuôi trồng đến chế biến và tiêu thụ, hình thành một thương hiệu cho thủy sản nước lợ Hải Phòng.
Chính vì vậy, giải pháp đầu tiên là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, để cả hệ thống nhìn nhận tích cực hơn về sự cần thiết của bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản vùng bờ. Để không chỉ người dân tự giác chấp hành các quy định của Nhà nước, mà ngay cả các nhà quản lý, nhà đầu tư cũng cần chú tâm hơn đến những yếu tố tác động.
Theo đó, bên cạnh việc siết chặt quản lý sử dụng tài nguyên, cần có đánh giá đầy đủ về nguồn lợi tự nhiên của từng địa phương trên địa bàn Hải Phòng. Phải chú trọng hơn đến việc nghiên cứu xác định các bãi đẻ, mùa vụ sinh sản, từ đó xác định cơ cấu nghề nghiệp và định lượng, định hướng khai thác phù hợp theo mùa vụ, bao gồm cả việc quy định việc cấm đánh bắt trong mùa sinh sản, song song với các giải pháp quản lý và tổ chức sản xuất.
Nhưng điều cần thiết trước mắt, việc phân định giữa quy hoạch phát triển ngành thủy sản và các ngành kinh tế khác cũng cần được rõ nét, hạn chế thấp nhất mức độ ảnh hưởng gây tác hại lẫn nhau.
Đây sẽ là bước khởi đầu cho một giai đoạn mới, để Hải Phòng bảo đảm hài hòa giữa khai thác và bảo tồn nguồn lợi vùng bờ, vùng bồi, hướng tới phát triển bền vững.
Lê Minh Thắng
Phấn đấu ngày 15/9 hoàn thành cấp điện cho 100% huyện đảo Cát Hải
Công an Hải Phòng xuống đường bảo đảm TTATGT, giúp dân tránh trú an toàn ngay giữa tâm bão