15:45 06/11/2023 Ngày 6-11, kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 15 bắt đầu phiên chất vấn và trả lời chất vấn.
Giám sát thực hiện các lời hứa
Phát biểu khai mạc phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: đây là lần đầu trong nhiệm kỳ khóa 15 và là lần thứ tư, Quốc hội tiến hành chất vấn các thành viên Chính phủ, Trưởng ngành về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, về chất vấn đối với các lĩnh vực.
Đồng thời, thông qua hoạt động tái giám sát, sẽ khẳng định rõ nét hơn một Quốc hội luôn đồng hành cùng cả hệ thống chính trị, nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp, sát tình hình thực tiễn, hiệu quả, khả thi, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Theo đó, các vị đại biểu Quốc hội sẽ chất vấn việc thực hiện của các cơ quan liên quan đến 10 nghị quyết của Quốc hội khóa 14 và khóa 15. Phạm vi nội dung rất rộng, liên quan đến 21 lĩnh vực, gồm những vấn đề lớn, quan trọng, phản ánh mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, được nhân dân và cử tri hết sức quan tâm, nhất là trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình khắc phục hậu quả nặng nề của đại dịch COVID-19.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chất vấn, vừa đảm bảo tính toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm, thuận lợi cho cả đại biểu Quốc hội và người trả lời chất vấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sắp xếp nội dung chất vấn thành 4 nhóm lĩnh vực.
Cụ thể là:kinh tế tổng hợp gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, tài chính, ngân hàng; kinh tế ngànhgồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường; nội chính, tư pháp gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tư pháp; nội vụ; an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thanh tra; tòa án; kiểm sát; kiểm toán; văn hóa, xã hộigồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động, thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông.
Theo Chủ tịch Quốc hội, chất vấn là hình thức giám sát đặc biệt hiệu quả, thể hiện đậm nét tính dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, công khai, minh bạch và là một khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Từ đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần xây dựng, trách nhiệm, qua quá trình hoạt động thực tiễn, làm rõ đến cùng việc thực hiện kiến nghị về những vấn đề đã được giám sát, chất vấn. Đối với các thành viên Chính phủ, các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành, đề nghị nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Quốc hội, trước cử tri và nhân dân cả nước để làm rõ thực trạng tình hình, những kết quả nổi bật đã làm được, những việc chưa làm được hoặc làm chưa tốt; chỉ rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và phương hướng, giải pháp tiếp tục thực hiện để tạo chuyển biến căn bản, thực chất trong từng lĩnh vực được chất vấn.
Chỉ rõ những khó khăn, hạn chế, thách thức
Phát biểu về kết quả của 4 nhóm vấn đề nêu trên, Phó thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang cũng chỉ rõ nhiều khó khăn, hạn chế, thách thức.
Cụ thể, thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, các giải pháp về công tác quy hoạch, đầu tư, tài chính, tiền tệ, tín dụng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác quy hoạch được đẩy mạnh, chất lượng được nâng lên; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, tỉnh, phấn đấu hoàn thành phê duyệt các quy hoạch trong năm 2023.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng thừa nhận, trong các lĩnh vực này, vẫn còn những hạn chế, bất cập, đúng như nhiều đại biểu Quốc hội đã nêu. Tiến độ hoàn thành các quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch tỉnh còn chậm. Giải ngân vốn đầu tư công, triển khai chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vay trong gói 40 nghìn tỷ đồng của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Việc sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Tiếp cận tín dụng còn hạn chế, tăng trưởng tín dụng thấp, nợ xấu có xu hướng tăng; việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém gặp nhiều khó khăn do phải đánh giá đúng giá trị tài sản đã qua nhiều thời kỳ…
Về các lĩnh vực: công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn; giao thông vận tải; xây dựng; tài nguyên và môi trường, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tập trung hoàn thiện, ban hành Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (Quy hoạch Điện 8) và đang tập trung hoàn thiện Kế hoạch thực hiện; kịp thời triển khai các giải pháp bảo đảm cung ứng điện và an ninh năng lượng quốc gia. Hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về các đập, hồ chứa thủy điện. Phát triển mạnh thị trường trong nước gắn với mở rộng, đa dạng hóa thị trường quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; đồng thời đẩy mạnh đàm phán, ký kết các FTA mới; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực, tham gia đầu tư vào các chuỗi cung ứng toàn cầu…
Chính phủ đã trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư 6 dự án giao thông trọng điểm quốc gia với tổng vốn đầu tư gần 400 nghìn tỷ đồng. Đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, hoàn thiện thủ tục khởi công toàn bộ các dự án được Quốc hội thông qua; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công các dự án giao thông; xây dựng quy chuẩn thiết kế đường bộ cao tốc. Từ năm 2021 đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 659 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đưa vào khai thác là 1.822 km; phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành và vượt mục tiêu 3.000 km đường cao tốc theo nghị quyết Đại hội 13 của Đảng…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giải phóng mặt bằng, triển khai thi công của một số dự án hạ tầng trọng điểm, nhất là hạ tầng năng lượng và giao thông còn chậm; chưa ban hành Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện 8, Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy định về hoạt động lấn biển. Việc phát triển đô thị thông minh còn hạn chế; thị trường bất động sản còn khó khăn. Chất lượng môi trường ở một số nơi còn chậm được cải thiện; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, cơ sở sản xuất, lưu vực sông, đô thị còn những bất cập…
Về các lĩnh vực: khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động - thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo sửa đổi đồng bộ cơ chế quản lý, tài chính, phương thức đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022. Khuyến khích liên kết, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, ứng dụng và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp; rà soát, sắp xếp, đẩy mạnh cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Hoàn thiện hành lang pháp lý thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo; triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018; chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Kịp thời ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch COVID - 19. Đẩy mạnh triển khai hiệu quả cơ chế tự chủ đại học nhưng phải xử lý các vấn đề về đất đai; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học; hỗ trợ khởi nghiệp cho học sinh sinh viên. Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao…
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; đời sống nhân dân được cải thiện tốt hơn. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn 2,93%. Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, chăm lo và phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ... được quan tâm. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65. Kết nối cung cầu lao động được tăng cường; kịp thời hỗ trợ người lao động bị mất việc, giảm giờ làm; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2023 ước khoảng 2,76% (chỉ tiêu Quốc hội giao là dưới 4%)…
Tuy nhiên, các lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế, tồn tại, khó khăn. Đó là, đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo còn khiêm tốn. Chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề có mặt còn hạn chế; tình trạng thừa thiếu cục bộ giáo viên mầm non, phổ thông vẫn chưa được giải quyết dứt điểm; cải cách sách giáo khoa chưa đáp ứng yêu cầu. Phát triển văn hóa còn chậm so với phát triển kinh tế; phát triển công nghiệp văn hoá, du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế.
Tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế cục bộ chưa được khắc phục triệt để; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu; chưa xử lý dứt điểm các dự án bệnh viện chậm tiến độ. Số người lao động mất việc làm, giảm giờ làm, rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng cục bộ; lao động khu vực phi chính thức còn lớn; tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên còn cao…
Về các lĩnh vực: tư pháp; nội vụ; an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xác định rõ nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật và tổ chức thi hành là một nhiệm vụ trọng tâm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo kịp thời thể chế hóa những chủ trương, định hướng chính sách, Nghị quyết của Đảng, Quốc hội; chú trọng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã trình Quốc hội thông qua 3 Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm; 25 dự án luật, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành 116 văn bản, trong đó có 68 Nghị định để quy định chi tiết các luật, nghị quyết đã có hiệu lực.
Công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm chỉ đạo thường xuyên.Công tác thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính ngày càng hiệu quả; các vụ việc phức tạp, kéo dài, xử lý thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án kinh tế, tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tiếp tục triển khai hiệu quả Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các quy định về công tác bồi thường trên cả 3 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy; kiên quyết tổ chức lại, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức không đáp ứng tiêu chí, điều kiện thành lập, nhất là các tổ chức bên trong các bộ, ngành, địa phương. Rà soát tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy hoạch đã được phê duyệt, bảo đảm thu gọn tối đa đầu mối, tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ, đẩy mạnh xã hội hóa. Tiếp tục chấn chỉnh tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ; đã ban hành Nghị định của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung…
Bên cạnh những kết quả đạt được, các lĩnh vực công tác này vẫn còn những tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết đã có hiệu lực vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính có lúc, có nơi còn chậm, chưa kịp thời, quyết liệt; sắp xếp, kiện toàn bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn những bất cập. An ninh, trật tự an toàn xã hội, tội phạm ở một số địa bàn, lĩnh vực còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm mạng; còn để xảy ra một số vụ việc cháy nổ, tai nạn giao thông nghiêm trọng và phát sinh một số vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người phức tạp...
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn, đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần thực hiện hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra. Trong đó, nhiều nhiệm vụ đã hoàn thành, tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực và một số nhiệm vụ mang tính thường xuyên, lâu dài đang được triển khai quyết liệt. Tuy nhiên, một số nhiệm vụ triển khai còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan và tiếp tục cần thời gian để hoàn thành.
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nỗ lực hơn nữa trong triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trân trọng đề nghị và mong tiếp tục nhận được quan tâm, đồng hành, ủng hộ và giám sát của Quốc hội, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước để nỗ lực phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2023, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 theo Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội.
Mổ xẻ lý do vì saogói 120.000 tỷ đồng giải ngân chậm?
Đại biểu Trần Thị Thanh Hương (An Giang) cho biết, việc hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội là một chủ trương rất nhân văn của Đảng và Nhà nước được cử tri và đông đảo người dân phấn khởi và kỳ vọng. Nhưng đến nay, gói hỗ trợ tín dụng 120.000 tỷ đồng cho loại hình nhà ở này mới chỉ giải ngân được khoảng 100 tỷ đồng. Lý do là gì?
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, gói 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội với người thu nhập thấp, công nhân với mục tiêu có 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội tới năm 2030. Nguồn tiền cho gói tín dụng này đến từ nguồn huy động tín dụng trong dân, với lãi suất ưu đãi từ nguồn tài chính của các ngân hàng tham gia.
Khi chính sách này được ban hành, Ngân hàng Nhà nước đã hướng dẫn các ngân hàng và đề nghị UBND các tỉnh quan tâm, công bố dự án thuộc chương trình cho vay.
Các ngân hàng cũng đưa ra quy trình nội bộ để triển khai gói tín dụng này. Hiện có 18/63 UBND gửi văn bản công bố dự án tham gia chương trình, 53 dự án với nhu cầu vay 27.000 tỷ đồng. Các ngân hàng đã giải ngân được 105 tỷ đồng cho 3 dự án tại 3 địa phương, tới cuối tháng 10.
Nêu nguyên nhân, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, do nguồn cung về nhà thuộc đối tượng vay - lao động thu nhập thấp, hạn chế. Bên cạnh đó, điều kiện được hưởng chính sách nhà ở xã hội còn bất cập, như: quy định về thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân, chưa có nhà ở... Theo Thống đốc NHNN, gói vay này thực hiện 10 năm, trong khi cho vay bất động sản thường kéo dài và giải ngân theo thời gian, nên đạt thấp.
Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
Đại biểu Trần Thị Thanh Hương cũng đặt câu hỏi về giải pháp để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian qua, có nhiều giải pháp được đưa ra, như rà soát hành lang pháp lý, sửa đổi, bổ sung, tạo thuận lợi cho việc này. Đến nay, nhiều hoạt động được thực hiện qua các kênh số, ứng dụng công nghệ, bảo đảm an toàn hoạt động thanh toán.
Các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt trong 9 tháng qua tăng trưởng cao như: tỷ lệ giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 49% về số lượng, giao dịch qua internet tăng 60,3%, qua kênh điện thoại di động tăng 60,8%, qua QR code tăng 105%... Giao dịch qua ATM giảm cho thấy xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt tăng.
Về khó khăn, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, như thói quen, tâm lý sử dụng tiền mặt, tâm lý e ngại khi tiếp cận công nghệ mới trong thanh toán, xu hướng tội phạm công nghệ cao khiến người dân chưa mặn mà.
Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục rà soát các văn bản và phối hợp các cơ quan để hoàn thiện hành lang pháp lý và có các biện pháp phòng ngừa để bảo mật thông tin, bảo đảm an ninh, an toàn cho khách hàng, tăng cường thông tin truyền thông.
Tìm giải pháp tăng dư nợ tín dụng
Đại biểu Trần Thị Vân (Bắc Ninh) nêu, theo báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 6, tăng trưởng tín dụng 9 tháng chỉ đạt 5,91% và đề nghị Thống đốc cho biết nguyên nhân và giải pháp của Ngân hàng Nhà nước để tăng trưởng tín dụng đạt 14% như mục tiêu đề ra trong khi chỉ còn 2 tháng nữa là hết năm 2023.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, lý do tăng trưởng tín dụng 9 tháng năm 2023 thấp là do cầu tín dụng, với doanh nghiệp đơn hàng giảm sút, khả năng khai thác cầu nội địa khó khăn do người dân khó khăn sau đại dịch COVID-19. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo rút ngắn thủ tục cho vay hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Điều kiện tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa được cải thiện.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Quang Huân (Bình Dương) về nghiên cứu hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng với các ngân hàng, Thống đốc cho rằng, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được điều hành bám sát theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ. Mức tăng trưởng tín dụng hàng năm được Ngân hàng Nhà nước đưa ra định hướng đầu năm. Còn phân bổ hạn mức tín dụng dựa theo xếp hạng các tổ chức tín dụng, có tiêu chí rõ ràng về định lượng, định tính.
Ngân hàng Nhà nước đã thống nhất ở thời điểm này chưa thể bỏ cách điều hành phân bổ chỉ tiêu tín dụng. Bởi hiện nay nhu cầu vốn nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng, nếu bỏ chỉ tiêu tín dụng làm cho tăng trưởng tín dụng cao trong khi tăng trưởng tín dụng Việt Nam đang ở mức cao trên GDP theo cảnh báo của WB. NHNN tiếp tục điều hành bằng cách này đến khi các phân khúc khác của thị trường tài chính như trái phiếu doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu thì việc bỏ cách điều hành phân bổ chỉ tiêu tín dụng sẽ khả thi hơn.
Tín dụng đen vẫn còn đất sống
Đại biểu Huỳnh Thanh Phương (Tây Ninh) nêu: sau một thời gian bị kìm nén, hiện nay tín dụng đen vẫn còn đất sống, vẫn len lỏi không chỉ ở vùng nông thôn mà ngay cả ở vùng thành thị, thậm chí một số nơi đang có dấu hiệu hoạt động mạnh trở lại, gây không ít khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội.
Đại biểu đề nghị Thống đốc NHNN cho biết nguyên nhân cơ bản của vấn đề này, có thể ngăn chặn tín dụng đen được không để góp phần ổn định cuộc sống của nhân dân?
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, xử lý tín dụng đen được Đảng, Nhà nước, Chính phủ rất quan tâm. Bộ ngành triển khai nhiều giải pháp. Thủ tướng ban hành Chỉ thị 12 năm 2019 và Công điện để tăng khả năng tiếp cận tín dụng ở kênh chính thức nhằm hạn chế tín dụng đen.
Về phía NHNN đã ban hành quyết định, kế hoạch hành động trong đó nêu hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các kênh chính thức. Bộ Công an đã chủ trì, NHNN đã phối hợp tổ chức các hội nghị nhằm ngăn ngừa tín dụng đen. Bộ Công an cũng triển khai cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, NHNN ký kết với Bộ Công an để thúc đẩy các tổ chức tín dụng tham gia, kết nối với cơ sở dữ liệu này, tiến tới cho vay tín chấp đối với khoản cho vay nhỏ lẻ.
Thời gian tới, Thống đốc NHNN cho rằng, các cấp các ngành cùng chung tay nhằm giảm vấn nạn này. Các địa phương cần nắm bắt thông tin để người dân khi có nhu cầu vốn có thể tiếp cận kênh chính thức, tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu không tiếp cận nguồn tín dụng đen. Bộ Công an đã đấu tranh ngăn ngừa tội phạm, hành vi cho vay nặng lãi.
Không có mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách Nhà nước
Đại biểu Trần Chí Cường (Đà Nẵng) cho biết, Luật Ngân sách nhà nước và các quy định của pháp luật chuyên ngành có những quy định về việc sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động của bộ máy.
Tuy vậy, tại Luật Đầu tư công có nội dung quy định về tính chất của dự án đầu tư công dẫn tới cách hiểu cho rằng toàn bộ các dự án xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, mua sắm tài sản, sửa chữa, nâng cấp… đều phải sử dụng nguồn vốn đầu tư công. Điều này dẫn tới chồng lấn với các quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật chuyên ngành khác trong việc sử dụng chi thường xuyên để mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản công. Từ đó đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính làm rõ các giải pháp để giải quyết.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho rằng, vướng mắc cần có sự giải thích luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện chính xác và yên tâm nhất. Bởi Luật Đầu tư công quy định kể cả xây dựng mới, kể cả nâng cấp, sửa chữa, mở rộng tài sản công đều đưa vào Luật Đầu tư công.
“Khi đó phải xác định kế hoạch đầu tư trong trung hạn và hàng năm. Nếu như chương trình, dự án và các nguồn kinh phí không được đưa vào Luật Đầu tư công mặc dù đều là ngân sách nhà nước thì sẽ sai quy định. Cho nên hiện nay cái nào chi thường xuyên, cái nào chi đầu tư công vẫn đang bế tắc, gây vướng mắc trong triển khai thực hiện", Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết.
Điều hành phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, về ranh giới giữa chi thường xuyên với chi đầu tư trên cơ sở tờ trình của Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội đã khẳng định và Quốc hội đã có văn bản trả lời Chính phủ “trong thực tiễn cũng như trong quy phạm pháp luật, không có một văn bản nào, một trường hợp nào quy định mức chi thường xuyên và chi đầu tư là căn cứ vào giá trị số tiền cả".
"Không phải trên 15 tỷ là đầu tư công và dưới 15 tỷ lại là chi thường xuyên. Chúng ta chi lương hàng trăm nghìn tỷ, chi cho giáo dục đào tạo hàng trăm nghìn tỷ thì đều là chi thường xuyên"- Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, việc này căn cứ vào tính chất của các khoản chi chứ không phải là giá trị của các khoản chi. Và các cơ quan Quốc hội khẳng định rằng, không có vướng mắc gì trong Luật Đầu tư công và yêu cầu Chính phủ rà soát lại xem có vướng mắc trong Luật Ngân sách nhà nước hay không? Cho đến nay, sau khi rà soát, kết luận bước đầu là không có vướng mắc.
Do đó, Quốc hội đã đưa việc giải quyết nghị quyết đặc thù về vấn đề chi thường xuyên và chi đầu tư ra khỏi chương trình, không chấp nhận việc đó. Nếu như, Chính phủ và các bộ ngành thấy rằng trách nhiệm giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì cần có đề xuất. Ủy ban Thường vụ Quốc hội không giải thích những vấn đề đã rõ hoặc những nội dung không ai yêu cầu giải thích.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, 2 tổ tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật, một tổ của Chính phủ do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang làm tổ trưởng và một tổ do Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định làm tổ trưởng. Hai tổ rà soát độc lập rà soát từ bộ ngành, địa phương liên quan đến hơn 500 văn bản, thông tư, nghị định đến luật trong đó có Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công thì không hề có một bộ nào nói gì về vấn đề này là vấn đề vướng mắc và ách tắc cả.
Giải trình thêm, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết, Bộ đã nghiên cứu rất kỹ Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách nhà nước. Luật Đầu tư công ban hành từ năm 2014 trói hết mọi hoạt động, ví dụ sửa chữa, nâng cấp, mở rộng… Toàn bộ tài sản công, không phân biệt giá trị bao nhiêu tiền đều đưa vào thì đương nhiên khi chúng ta thực hiện tài sản đó phải được điều chỉnh bởi Luật Đầu tư công- Bộ trưởng phân tích thêm.
Ngoài ra, Luật Đầu tư công cũng quy định các khoản chi nếu không có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn thì không được chi, nếu thực hiện là vi phạm.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, về chi thường xuyên, vấn đề không hẳn là do Luật Đầu tư công, mà còn liên quan đến Luật Ngân sách nhà nước. Về việc sửa chữa nâng cấp, hiện nay công tác này vẫn được triển khai bình thường, không có vướng mắc. Về đầu tư mới, phải thực hiện theo quy trình quy định trong Luật Đầu tư công.
Hiện nay, Chính phủ đang trình Quốc hội nội dung, với dự án dưới 15 tỷ đồng thì có thể thực hiện dự án từ chi thường xuyên. Vấn đề này sẽ được Quốc hội quyết định.
Về tiết kiệm trong đầu tư công, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư bày tỏ đồng tình với Bộ trưởng Bộ Tài chính. Theo đó, về vấn đề đầu tư công, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thất thoát, có thể từ khâu lựa chọn dự án, có thể do quy mô của dự án không được xác định rõ ràng, hoàn chỉnh ngay từ đầu; công tác chuẩn bị đầu tư, nếu khảo sát tốt thì quá trình triển khai sẽ nhanh hơn, không bị tăng chi phí. Ngoài ra, còn nhiều lý do từ các khâu thiết kế, khảo sát thiết kế, tổ chức thực hiện, khiến kéo dài dự án, giảm hiệu quả tiết kiệm trong đầu tư công.
Bảo hiểm đối với ô tô, xe máy có thiết thực?
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc (Bà Rịa - Vũng Tàu) đặt câu hỏi về việc mua bảo hiểm bắt buộc, trách nhiệm dân sự đối với ô tô, xe máy có mang lại lợi ích thiết thực cho người dân? Theo đại biểu, cử tri đã nhiều lần phản ánh việc mua bảo hiểm bắt buộc, trách nhiệm dân sự đối với ôtô, xe máy chưa mang lại lợi ích thiết thực vì thủ tục bồi thường quá nhiều khó khăn và vô cùng phức tạp. Việc mua bảo hiểm loại này chủ yếu là để tránh cho cơ quan chức năng không xử phạt khi điều khiển các phương tiện lưu thông trên đường.
Đại biểu đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết sẽ có giải pháp gì để bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với ôtô, xe máy thực sự phát huy được ý nghĩa và mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người dân?
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, về vấn đề bảo hiểm xe cơ giới được quy định tại Luật Giao thông đường bộ và Luật Bảo hiểm, đây là một hình thức bảo hiểm bắt buộc.
Thời gian qua, xe máy bị tai nạn chiếm 64%, từ năm 2021 đến tháng 9-2023, các công ty bảo hiểm đã chi trả cho người bị tai nạn số tiền rất lớn, lên tới 2.300 tỷ đồng.
Theo Bộ trưởng, người sử dụng xe máy đa số thu nhập không cao, khi có ảnh hưởng đến tính mạng, thì bảo hiểm được chi trả tối đa là 150 triệu đồng, xe hư hỏng thì trả tối đa 50 triệu đồng. Điều đó thể hiện Luật Kinh doanh Bảo hiểm và Luật Giao thông đường bộ đã bảo vệ người lái xe máy.
Bộ trưởng cũng cho biết, để thuận lợi hơn cho chi trả, Nghị định 67 đã quy định trong vòng 3 ngày, công ty bảo hiểm phải chi trả cho người dân bị tai nạn: Nếu bị ảnh hưởng tới tính mạng thì mới cần có biên bản, giấy tờ của công an, còn không bị ảnh hưởng tới tính mạng thì chỉ cần có tư liệu ảnh và cung cấp hồ sơ điện tử là sẽ được giải quyết các thủ tục cần thiết để được hưởng bảo hiểm.
Vẫn còn tình trạng cán bộ né tránh, đùn đẩy trách nhiệm
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh về tình trạng này trong báo cáo bổ sung, làm rõ một số vấn đề về thực hiện nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn, thuộc lĩnh vực nội vụ.
Để xử lý tình trạng trên, Thủ tướng Chính phủ ban hành 4 công điện; thành lập các tổ công tác về: cải cách thủ tục hành chính; rà soát văn bản pháp luật; tháo gỡ khó khăn trong đầu tư công.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2023/NĐ-CP, Nghị định số 69/2023/NĐ-CP, Nghị định số 71/2023/NĐ-CP, Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, theo đó bổ sung quy định việc né tránh, đùn đẩy là căn cứ đánh giá, xếp loại, để xem xét, xử lý kỷ luật; đồng thời thể chế hóa chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Hiện nay, Bộ Nội vụ đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2020/NĐ-CP, Nghị định số 138/2020/NĐ-CP, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức đối với công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với Quy định số 41-QĐ/TW ngày 03/11/2021 của Bộ Chính trị.
Bộ trưởng thẳng thắn chỉ rõ, né tránh, đùn đẩy công việc, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ là thực trạng xảy ra ở một số bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Biểu hiện phổ biến là né tránh những việc khó, phức tạp, nhạy cảm trong thực thi công vụ và giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp; chậm trễ giải quyết, để tồn đọng công việc; trả lời, hướng dẫn không rõ quan điểm, chính kiến của tổ chức, đơn vị mình; đẩy việc; hỏi xin ý kiến những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình; lạm dụng việc lấy ý kiến phối hợp để né tránh trách nhiệm.
Tình trạng này xảy ra trong nhiều hoạt động kinh tế - xã hội, thể hiện rõ trong: đầu tư công, đấu thầu, quản lý đất đai, y tế, xây dựng, giải quyết thủ tục đầu tư, sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ công cho người dân…, dẫn đến giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, công chức là giải pháp đầu tiên để khắc phục tình trạng trên. Cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức công vụ.
Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, người đứng đầu trong việc chủ động, tích cực thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Đảng gắn với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; xóa bỏ nhận thức trong một số cán bộ, công chức “không làm thì không sai”, “đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước hội đồng xét xử” đang xuất hiện và là một loại “tự diễn biến” cản trở nghiêm trọng sự phát triển”. Cùng với đó là khơi dậy lòng tự trọng, bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức.
Nhóm giải pháp nữa là thực hiện nghiêm chỉ đạo của Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Các bộ, ngành đẩy mạnh việc rà soát, đề xuất bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách, nhất là lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, vướng mắc trên thực tiễn; trong đó, chú trọng tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực.
Triển khai Nghị định số 73/2023/NĐ-CP về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, đồng thời nghiên cứu để thể chế hóa chủ trương này vào Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.
Ngoài ra, tiếp tục cải cách tiền lương, có biện pháp, chính sách khuyến khích, khen thưởng thực chất dựa trên hiệu suất và kết quả thực hiện công việc.
Về đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới công vụ, công chức, Bộ trưởng Bộ Nội vụ lưu ý tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc thực hiện chức trách công vụ của cán bộ, công chức; sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị bảo đảm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ; phân công cụ thể, rành mạch trách nhiệm từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; trách nhiệm người đứng đầu và từng cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Quy định cụ thể về đạo đức công vụ và siết chặt kỷ luật, kỷ cương công vụ, tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ.
Kịp thời biểu dương cơ quan, tổ chức, cá nhân làm tốt và xử lý nghiêm cán bộ, công chức không làm tròn chức trách, nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ; kịp thời thay thế, điều chuyển cán bộ hạn chế năng lực lãnh đạo, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
Nghiên cứu công tác tuyển dụng, quản lý, nhất là đánh giá cán bộ, công chức theo tiêu chí, bằng sản phẩm cụ thể. Sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá làm căn cứ bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức. Kịp thời miễn nhiệm, từ chức đối với những trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ; xử lý trách nhiệm người đứng đầu nếu trong cơ quan, đơn vị, địa phương còn xảy ra tình trạng cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy, làm việc cầm chừng, sợ trách nhiệm không dám làm.
Bên cạnh đó, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong thực thi công vụ cũng được xem là giải pháp quan trọng. Bởi, sự nêu gương và vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của người đứng đầu là quyết định kỷ luật, kỷ cương và thành công trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Quan tâm xây dựng môi trường chính trị, môi trường văn hóa công sở tạo động lực, niềm tin cho cán bộ, công chức làm việc.
Các cơ quan kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử tiếp tục nghiên cứu, phân loại vụ việc vi phạm sai phạm theo tính chất, mức độ, động cơ nếu không có vụ lợi cá nhân, không tham ô, tham nhũng thì khoan dung, khoan hồng, nhân văn hơn nữa nhằm tạo cơ chế đồng bộ, tinh thần khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vị lợi ích chung. Từ đó góp phần đẩy lùi tâm lý sợ sai, thiếu trách nhiệm, không dám làm khi thực thi công vụ./.
Hồng Thanh
22:48 23/11/2024
14:30 23/11/2024