Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên (1/3/1923-1/3/2023): Chiến sỹ lỗi lạc trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam

15:49 27/02/2023

Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên tên khai sinh là Nguyễn Hữu Vũ, bí danh Nguyễn Văn Đồng, sinh ngày 1/3/1923 tại xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình.
Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên thị sát đường chi viện chiến trường miền Nam tại Quảng Bình năm 1972 (ảnh tư liệu)

          Từ năm 1938 đến năm 1940, đồng chí tham gia hoạt động cách mạng trong các tổ chức hội quần chúng cứu quốc ở quê nhà, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 12/1939 và trở thành Bí thư Chi bộ xã Quảng Trung năm 1940.

          Năm 1941, đồng chí làm Phủ ủy viên huyện Quảng Trạch. Từ năm 1942 đến tháng 2/1945, làm Ủy viên Ban cán sự tỉnh Quảng Bình phụ trách hai huyện Quảng Trạch và Tuyên Hóa. Cuối năm 1942 địch khủng bố, cơ sở bị vỡ, đồng chí sang Thái Lan và Lào tiếp tục hoạt động, gây dựng cơ sở trong Việt kiều.

          Tháng 3/1945, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên về nước tham gia lập chiến khu, chuẩn bị khởi nghĩa; tháng 8/1945 được chỉ định vào Thường vụ Tỉnh ủy và làm Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Quảng Bình.

          Từ năm 1946 đến năm 1948, đồng chí làm Bí thư Huyện ủy, kiêm Chính trị viên Huyện đội, Huyện đội trưởng huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, được cử đi học lớp Nguyễn Ái Quốc khóa I (năm 1946), sau đó làm Tỉnh ủy viên, Chính trị viên, kiêm Tỉnh đội trưởng tỉnh Quảng Bình vào tháng 5/1948.

          Từ năm 1949 đến năm 1950, được cử đi học lớp quân sự Bộ Tổng Tư lệnh, công tác ở Phòng Đảng vụ, Cục Chính trị. Từ năm 1951 đến tháng 1/1954, làm Cục phó Cục Tổ chức, Phái viên của Tổng Tư lệnh trong các chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoàng Hoa Thám, tham gia Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Trung Lào.

          Từ tháng 2/1954 đến tháng 3/1956, đồng chí phụ trách công tác trao trả tù binh ở Sầm Sơn và đón tiếp bộ đội miền Nam tập kết. Từ tháng 4/1956 đến năm 1960, đồng chí lần lượt kinh qua các chức vụ Cục phó Cục Điều động dân quân, Cục trưởng Cục Động viên dân quân, Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, được phong quân hàm Đại tá năm 1958. 

          Từ năm 1961 đến năm 1962, đồng chí được cử đi học tại Học viện Quân sự Bắc Kinh. Năm 1964, đồng chí làm Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, Tổng Tham mưu phó. Năm 1965, làm Chính ủy Quân khu 4, Bí thư Khu ủy rồi Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Mặt trận Trung Lào. Năm 1966 giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần phụ trách Tổng cục Tiền phương.

          Từ năm 1967 đến tháng 5/1976, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Tư lệnh Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đoàn 559; Bí thư Ban cán sự cố vấn Đảng, quân, dân, chính, kiêm Tư lệnh Bộ đội tình nguyện ở Trung Hạ Lào, được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng năm 1974.

          Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đồng chí tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đến tháng 6/1976 giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Đảng ủy Tổng cục, Chủ nhiệm Tổng cục xây dựng kinh tế. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ Xây dựng.

          Từ năm 1977 đến tháng 2/1982, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Bí thư Ban cán sự đảng Bộ Xây dựng. Đầu năm 1979,  điều trở lại quân đội làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô; đến tháng 8/1979 được điều trở lại giữ chức Bộ trưởng, Bí thư Ban cán sự đảng Bộ Xây dựng.

          Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; được bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ) kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

          Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đồng chí được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

          Năm 1991, đồng chí thôi giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, được cử làm Đặc phái viên Chính phủ thực hiện Chương trình 327, tham gia chỉ đạo xây dựng đường Hồ Chí Minh.

          Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được giao nhiều cương vị quan trọng. Đặc biệt, trên cương vị Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn (1967-1976), đồng chí đã có những quyết định sáng tạo trong chỉ đạo, tổ chức lực lượng, xây dựng, phát triển, khai thác hiệu quả đường Trường Sơn và lập nhiều chiến công đặt biệt xuất sắc, kịp thời chi viện sức người, sức của cho các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

          Với những cống hiến, công lao to lớn và thành tích xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương, phần thưởng cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. Đồng chí từ trần vào ngày 4/4/2019, hưởng thọ 96 tuổi.

          Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Đồng Sỹ Nguyên là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam; qua đó giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam học tập, noi theo, góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

          Hoàng Minh (tổng hợp)

Từ khóa:
Bình luận của bạn về bài viết...

captcha

Bản tin Pháp luật

Video clip

Phóng sự ảnh

An toàn giao thông