Ngoại giao Việt Nam: Phát huy truyền thống dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định, linh hoạt, biến nguy thành cơ

13:20 19/07/2021

Nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam vốn đã nặng nề, trong thời gian tới càng chịu áp lực lớn hơn, vừa nhằm thích ứng với bối cảnh thế giới và khu vực biến động mạnh, khó lường, vừa phục vụ những chiến lược, mục tiêu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều biến động phức tạp. Đặc biệt, ngay từ đầu năm 2020, cuộc khủng hoảng do Covid-19 gây ra đã tác động toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực đến tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Những biến động của tình hình thế giới và khu vực cũng đã tác động trực tiếp đến môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của Việt Nam.

Nhận thức rõ thách thức đối với đất nước, tại Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng xác định nhiệm vụ cho công tác đối ngoại, theo đó, tiếp tục phát huy những nền tảng cơ bản, những thành công đã đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đồng thời vận dụng sáng tạo, hành động linh hoạt, ứng phó những diễn biến bất thường, khó lường của tình hình thế giới.   

Với khát vọng vượt qua thách thức, phát triển của đất nước, Đại hội XIII đã khẳng định rõ, Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Theo đó, công tác đối ngoại thực hiện những nhiệm vụ cụ thể:

Thứ nhất, đối ngoại tiếp tục phát huy vai trò xung kích trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng, vừa là sự nhìn nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới.

Thứ hai, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Thứ ba, Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ tư, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới. Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu. Đối ngoại đa phương cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”, và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”.

Thứ năm, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc và Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”.

Thứ sáu, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó, hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ bảy, văn kiện Đại hội nêu: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính “toàn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân… qua đó phát huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát triển của đất nước sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới.

Nhiệm vụ cuối cùng và cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất, trong đó, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”- như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Phải nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, tính chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”.

Như vậy, văn kiện Đại hội XIII sẽ là kim chỉ nam cho việc triển khai công tác đối ngoại, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp với thực tiễn, cũng như với thế và lực mới của đất nước.

 

 Ngành ngoại giao Việt Nam lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng trong bảo vệ và phát triển đất nước.

Là ngành xung kích trên mọi mặt trận, công tác đối ngoại tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, bởi chỉ có hòa bình, ổn định mới có sự hợp tác giữa các khu vực, quốc gia, tạo môi trường lành mạnh trong đầu tư, hoạt động kinh doanh – sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.

Cùng với phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong ngoại giao Hồ Chí Minh, nhờ chiến lược, đường lối, quyết sách đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, từ thành tựu của công tác đối ngoại, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng trong hợp tác quốc tế, thu được những thành quả to lớn trong các lĩnh vực, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, củng cố năng lực quốc phòng, vững chắc thế trận an ninh, có thêm thế và lực để thực hiện các nhiệm vụ quốc tế, không ngừng nâng cao uy tín và vị thế đất nước trên trường quốc tế, thu hút các nguồn lực phát triển, là điểm đến tin cậy đối với các nhà đầu tư quốc tế.... 

Quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng chung biên giới, các nước trong khu vực, các nước lớn, các đối tác ưu tiên, chủ chốt tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng được khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững. Các khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện được mở rộng, trên tinh thần lựa chọn đối tác có trọng tâm, trọng điểm.

Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn. Đặc biệt trong vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 và Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã chứng tỏ bản lĩnh và kinh nghiệm, là hình mẫu trong tham gia giải quyết các vấn đề gai góc, các điểm nóng của thế giới, mang lại những thành công có tính quyết định.

Hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, thu hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Trong 5 năm qua, đối ngoại đã thúc đẩy tạo dựng nhiều khuôn khổ thuận lợi cho hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc tham gia và ký kết 2 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới là CPTPP, EVFTA và 1 FTA quy mô hàng đầu thế giới là RCEP, mang lại những cơ hội to lớn về mở rộng, đa dạng hóa thị trường và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trò hòa giải, góp phần vào hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã khẳng định vai trò ngày càng quan trọng tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM (Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu), APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương), LHQ, G20 (Nhóm các nền kinh tế lớn), WEF (Diễn đàn Kinh tế thế giới) và các cơ chế tiểu vùng Mekong.

Đối ngoại song phương đã góp phần thiết thực vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam cũng xử lý tốt các vấn đề tồn tại và phát sinh trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, không để ảnh hưởng đến các lợi ích an ninh, phát triển cũng như cục diện quan hệ đối ngoại của đất nước.

Công tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ, củng cố môi trường hòa bình, ổn định. Về biên giới trên biển, mặc dù tình hình Biển Đông thời gian qua rất phức tạp, ta vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của ta ở Biển Đông được xác lập phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển 1982; đồng thời vẫn duy trì ổn định quan hệ song phương với các đối tác.

Công tác bảo hộ công dân và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai kịp thời, hiệu quả, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta: Triển khai bảo hộ công dân đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ/1.000 tàu/gần 10.000 ngư dân; kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến công dân ta tại nước ngoài trong đại dịch Covid-19. Việt Nam đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo đồng thời thường xuyên thông tin, đối thoại nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thu hẹp khác biệt.

Công tác ngoại giao văn hóa và thông tin đối ngoại được đổi mới hình thức và nội dung, nâng cao hiệu quả, hiệu ứng quảng bá về đất nước, văn hóa, con người và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam.

Ngay cả trong khó khăn của đại dịch Covid-19, đối ngoại vẫn điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả với các hình thức ngoại giao trực tuyến, đồng thời ta đã đẩy mạnh ngoại giao y tế và hợp tác quốc tế phòng chống dịch, qua đó nâng cao hình ảnh một Việt Nam có khả năng thích ứng, chống chịu cao với các thách thức bên ngoài, và là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhiều lần khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như ngày nay. Đó là kết quả của cả một quá trình, của nhiều nhiệm kỳ. Trong đó, công tác đối ngoại đã đạt nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ thành tựu chung của đất nước. Với tinh thần đó, chúng ta vững bước vào giai đoạn mới với một tâm thế mới, lòng tự hào và niềm tin sâu sắc vào thắng lợi.

Trần Hoàng tổng hợp

Từ khóa:
Bình luận của bạn về bài viết...

captcha

Bản tin Pháp luật

Video clip

Phóng sự ảnh

An toàn giao thông