17:42 01/11/2023 Ngày 1-11, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021-2025; Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; báo cáo của Chính phủ về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; kết quả rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Nghị quyết số 101/2023/QH15 về Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa 14.
Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP Hồ Chí Minh) cho biết, thành tựu lớn trong thời gian qua là nước ta đã chống chịu và vượt qua đại dịch, vững vàng trước những biến động toàn cầu, để tiếp tục phục hồi, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế đang được triển khai chậm, chưa mang lại thay đổi đáng kể về cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng; tiến độ xây dựng thể chế, chính sách thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế được thực hiện chậm, có nguy cơ bỏ lỡ các cơ hội phát triển.
Đại biểu cho rằng, để đạt được những mục tiêu đề ra, cần tham gia tích cực và sâu rộng vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam phải xây dựng xã hội số, kinh tế số, Chính phủ số, vượt thoát bẫy thu nhập trung bình và bẫy nợ công, thoát khỏi mô hình tăng trưởng cũ, thoát khỏi mô hình chủ yếu xuất khẩu tài nguyên, lao động gia công giá rẻ.
Theo đại biểu, trong khi đang nỗ lực đồng hành với thế giới trong cuộc cách mạng số, nhiều nội dung trong thể chế, hạ tầng, nhân lực nước ta vẫn còn chưa đạt được tiêu chuẩn hạ tầng kỹ thuật của nền công nghệ 2.0, 3.0; vẫn chưa có thể chế, hạ tầng nhân lực cơ bản của một quốc gia công nghiệp hóa. Đại biểu cho rằng, cần quyết liệt “thanh toán những món nợ” về thể chế, hạ tầng, nhân lực của các giai đoạn phát triển trước mà chúng ta còn thiếu, việc này cũng quan trọng không kém các nỗ lực số hóa nền kinh tế.
Đại biểu Trần Anh Tuấn (TP Hồ Chí Minh) cho biết, còn nhiều thách thức trong phát triển kinh tế thời gian tới: tổng cầu thấp, tín dụng cho nền kinh tế khó đạt được kế hoạch đề ra, áp lực lên tỷ giá, lạm phát, lãi suất cao, khả năng phục hồi của nền kinh tế còn chậm. Trước những khó khăn đó, đại biểu cho rằng, nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển, tuy có dư địa trong bội chi, trong đó chính sách hỗ trợ lãi suất 2% chỉ giải ngân được rất ít, còn dư nhiều. Chính phủ đề xuất kết thúc chính sách này trong thời gian tới. Đại biểu cho rằng đó là quyết định hợp lý, tuy nhiên cần vận dụng cơ chế này cho 2 năm còn lại, sử dụng dư địa bội chi trong giai đoạn 2021 – 2025 để dành nguồn lực đầu tư cho các dự án cấp bách như y tế, giáo dục, các dự án giao thông quan trọng, để tăng trần đầu tư công cho giai đoạn mới.
Cùng với đó, nguồn tiết kiệm tăng thu giảm chi trong năm 2021 dự kiến bố trí cho các cơ sở y tế cần gia hạn đến cuối năm 2025, để tạo điều kiện thực hiện đầy đủ các thủ tục, quy trình đấu thầu, đầu tư theo quy định của pháp luật.
Về điều chỉnh chính sách tài khóa nới rộng, đại biểu cho biết, các doanh nghiệp còn gặp lúng túng trong việc áp thuế, không biết các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình có trong diện được giảm thuế hay không. Để kích cầu nền kinh tế, đại biểu cho rằng nên giảm thuế VAT cho tất cả các mặt hàng trong nền kinh tế thay vì chỉ giảm cho một số mặt hàng nhất định.
Ngoài ra, để tháo gỡ điểm nghẽn trong tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, đại biểu cho rằng, chương trình tín dụng cho 5 lĩnh vực ưu tiên đang phát huy hiệu quả, nhưng mới chỉ áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn. Đại biểu cho rằng, cần có cơ chế cho vay trung, dài hạn, vì những lĩnh vực ưu tiên này, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ, công nghệ số, kinh tế số là những động lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh) cho biết, trong 9 tháng năm 2023, cứ 10 doanh nghiệp gia nhập thị trường thì có 8 doanh nghiệp rút khỏi thị trường, nhất là thời điểm cuối quý 1-2023 lần đầu tiên xảy ra tình trạng số doanh nghiệp rút khỏi thị trường cao hơn số doanh nghiệp mới tham gia và quay trở lại thị trường.
Cùng với suy giảm đơn hàng, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn chịu tác động của nhiều bất cập trong nội tại nền kinh tế, như: sự mâu thuẫn trong một số chính sách, pháp luật; điều kiện kinh doanh tồn tại nhiều rào cản...
Đặc biệt, theo đại biểu Thạch Phước Bình, sự chậm trễ, kém hiệu quả trong việc thực thi chính sách pháp luật, tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp do một số Bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, không quyết định những công việc thuộc thẩm quyền đã để doanh nghiệp lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn trong 9 tháng đầu năm nay.
Theo đại biểu Thạch Phước Bình, cần quan tâm đến chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của một số lĩnh vực xuất khẩu; hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) để giải phóng và khơi thông nguồn vốn bị tồn đọng, tạo thanh khoản cho doanh nghiệp thực thi chính sách tín dụng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực.
Một số ý kiến cũng đề nghị, cần khẩn trương thực hiện hiệu quả các giải pháp kích cầu để từ đó tạo hiệu ứng tâm lý tích cực, tạo thêm niềm tin cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế đối với tiềm năng và sự phục hồi của nền kinh tế. Có thể thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng bằng cách hỗ trợ trực tiếp cho người dân trong tiêu dùng để tăng sức mua, giảm giá hàng hóa tiêu dùng, giảm lãi suất, giảm thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp; tăng cho vay tiêu dùng đồng thời tăng hỗ trợ an sinh xã hội, đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp cho người nghèo.
Tận dụng các cơ hội phát triển
Đại biểu Vũ Tiến Lộc (Hà Nội) nhấn mạnh, trong bối cảnh khó khăn, nền kinh tế nước ta vẫn có nhiều điểm sáng, bảo vệ ổn định kinh tế vĩ mô trong thế giới đầy bất ổn là thành thành quả đặc biệt quan trọng.Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tương đối ổn định, bất chấp sức ép từ bên ngoài ngày càng gia tăng. Đầu tư nước ngoài có dấu hiệu tích cực. Xu hướng này cho phép chúng ta hy vọng tốc độ GDP đạt mục tiêu Chính phủ đề ra.
Tuy nhiên, theo đại biểu, để phục hồi và phát triển kinh tế thì tiền bạc là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là thể chế. Thể chế tốt thì khai thông nguồn lực, giúp tiền đẻ ra tiền, thể chế không tốt thì có tiền cũng không tiêu được.
Chính vì vậy, đại biểu cho rằng quan trọng nhất trong bối cảnh hiện nay vẫn là đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hoá thủ tục hành chính, bởi theo phản ánh của người dân và doanh nghiệp là đang còn nặng nề. Khắc phục cho được quy định chồng chéo, bất cập, nhất là thiếu minh bạch, gây rủi ro; đồng thời gỡ bỏ tâm lý sợ oan, sai, e ngại thanh tra, kiểm tra của cán bộ công chức và doanh nghiệp.
Cho rằng trong khủng hoảng thì giải pháp kinh điển, trực diện, phát huy hiệu quả trực tiếp, nhanh nhất là bơm tiền vào nền kinh tế, đại biểu Vũ Tiến Lộc nêu rõ, các quyết định bơm tiền được Quốc hội ban hành nhưng triển khai gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay cần quan tâm giải quyết tình trạng có tiền mà không tiêu được. Chừng nào tình trạng này vẫn còn thì chừng đó khó hy vọng có sự phát triển bứt phá của nền kinh tế thời gian tới.
Về thể chế, bên cạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật thì chúng ta cần chiến lược, chính sách đột phá phát triển các ngành kinh tế trong bối cảnh mới, không lặp lại tình trạng sau mấy chục năm mở cửa, hội nhập mà các ngành công nghiệp chủ lực như ô tô, dệt may, điện tử, da giày, thậm chí nền nông nghiệp căn bản dừng lại ở trình độ gia công, lắp ráp.
Nếu tham gia vào các chuỗi giá trị thế giới, ngay cả ngành công nghiệp đỉnh cao và tiềm năng như chip bán dẫn mà trong 10 -15 năm tới, Việt Nam vẫn đảm nhận khâu gia công, đóng gói thì đất nước không thể vượt bẫy trung bình, không thể trở thành quốc gia phát triển – đại biểu Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh rất cần quyết sách tầm chiến lược tầm quốc gia của cả Quốc hội và Chính phủ.
Đại biểu Lê Thanh Vân (Cà Mau) đề nghị Chính phủ tập trung thu hút, trọng dụng nhân tài và phát triển doanh nhân dân tộc. Đại biểu đánh giá cao Chính phủ đang xây dựng nghị định về trọng dụng nhân tài và mong rằng quy định sớm đi vào vận hành, trở thành quy tắc xử sự trong toàn xã hội.
Về doanh nhân dân tộc, vừa qua Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 41 nên đại biểu mong Quốc hội đưa được một đoạn hồn cốt của tinh thần này vào nghị quyết chung của kỳ họp và đề nghị Chính phủ sớm có giải pháp thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị.
Trong đó, cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp thường xuyên đối thoại, hỗ trợ doanh nhân khởi nghiệp; đặc biệt là bảo vệ tài sản hợp pháp của doanh nghiệp, bổ sung chế tài kinh tế xử lý vi phạm và không hình sự hóa quan hệ kinh tế.
Liên quan cải cách thể chế, đại biểu nhấn mạnh cần coi đây là một nguồn lực và tiếp tục đề nghị sớm thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về cải cách thể chế, coi đây là điểm đột phá quan trọng. Việc các ngành, địa phương xin cơ chế đặc thù cho thấy cái áo cơ chế của chúng ta đã quá chật hẹp. Cho nên, cần rà soát đồng bộ để may cái áo mới thay vì vá víu thay từng cúc áo một.
Về hạ tầng, đại biểu Lê Thanh Vân cho rằng cần giảm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển, có thể dùng toàn bộ tăng thu của các năm liên tiếp tập trung cho đầu tư cơ sở hạ tầng.
Cùng với đó là chấn hưng văn hóa và đạo đức ứng xử. Và để chấn hưng văn hóa thì 3 nhóm cần phải trách nhiệm đi đầu, tiên phong là giới lãnh đạo quản lý, thầy cô giáo và cha mẹ. Ba nhóm người này dẫn đầu về văn hóa, đạo đức thì thế hệ trẻ có ứng xử văn hóa, đạo đức tốt hơn.
Đại biểu Lã Thanh Tân (Hải Phòng) đề nghị Chính phủ quan tâm tháo gỡ một số cơ chế chính sách gắn với nâng cao hiệu lực hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật, tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Cụ thể, đại biểu Lã Thanh Tân đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định có vướng mắc trong thực tiễn thi hành để địa phương triển khai thực hiện thuận lợi và có hiệu quả.
Về thủ tục thành lập các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đầu tư khu công nghiệp, đô thị dịch vụ, theo quy định hiện hành, đối với dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp phải thực hiện thủ tục chấp nhận chủ trương đầu tư nhưng chưa quy định thực hiện trước hay sau. Việc phân kỳ các dự án có đất trồng lúa hai vụ cần chuyển mục đích sử dụng đất lớn hơn 200ha phải thực hiện hai lần các thủ tục thành lập, mà chưa xét tới các đặc thù của các địa phương, năng lực tài chính, kinh nghiệm của nhà đầu tư, các yếu tố hiệu quả kinh tế - xã hội và các phương pháp xác định diện tích tối ưu cho phát triển khu công nghiệp.
Khu công nghiệp đô thị dịch vụ được xác định là một thể thống nhất với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, các chức năng hỗ trợ cho nhau nhưng quy định hiện hành chỉ quy định trường hợp phát triển theo từng dự án riêng. Việc phát triển hạng mục đô thị dịch vụ phải thực hiện theo hình thức đấu giá, đấu thầu theo quy định của pháp luật. Điều này dẫn đến không đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của cả dự án. Chức năng đô thị dịch vụ được xác định là hỗ trợ cung ứng dịch vụ tiện ích công cộng và xã hội cho khu công nghiệp, tuy nhiên quy định hiện hành chưa quy định rõ đối tượng được mua thuê mua nhà ở và sử dụng các dịch vụ tiện ích công cộng có phải đối tượng được xác định theo quy định của pháp luật về nhà ở xã hội hay không?
Về quy định xây dựng các khu công nghiệp, quy định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh phải lấy ý kiến của các bộ liên quan đối với đồ án quy hoạch chung xây dựng, hoặc đồ án quy hoạch phân khu xây dựng khu công nghiệp, tuy nhiên quy định này không thống nhất với quy định tại Nghị định số 44 của Chính phủ. Theo đó UBND cấp tỉnh chỉ có trách nhiệm lấy ý kiến của Bộ Xây dựng trước khi phê duyệt và không có hướng dẫn xử lý chuyển tiếp Nghị định số 35 của Chính phủ….
Về việc thực hiện các quy định về an ninh quốc phòng trong quá trình xem xét cấp mới và điều chỉnh các dự án đầu tư, đại biểu cho biết, theo quy định tại Nghị định số 31 cơ quan đăng ký đầu tư cần xin ý kiến của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đối với các hồ sơ đăng ký dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc khu vực ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, nhưng lại chưa có quy định về xác định khu vực có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng.
Đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an căn cứ chức năng, thẩm quyền nghiên cứu xây dựng ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản xác định khu vực có ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh theo quy định của Luật Đầu tư; đồng thời có quy định về phân cấp phân quyền cho cơ quan quân sự và cơ quan công an ở địa phương trong việc xem xét cấp mới, điều chỉnh dự án đầu tư liên quan đến an ninh quốc phòng.
Quan tâm tới trụ đỡ nông nghiệp
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) nêu rõ, báo cáo của Chính phủ đánh giá năm 2023, khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn.
Tuy nhiên, đại biểu phản ánh, đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế, người nông dân gặp nhiều rủi ro khi sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Đại biểu đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan tập trung phân tích, đánh giá thực chất và kỹ lưỡng nguyên nhân của tình trạng này, khắc phục những tồn tại, hạn chế, chấm dứt điệp khúc “được mùa – mất giá” và nhiều đợt “giải cứu nông sản” như thời gian qua.
Đại biểu đề nghị Chính phủ, các bộ ngành nghiên cứu tạo điều kiện thuận lợi, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút nguồn vốn, nguồn lực cho việc phát triển nông nghiệp, tháo gỡ những vướng mắc về thị trường, giá cả, vật tư cho người nông dân. Các bộ, ngành cần đồng hành tháo gỡ khó khăn trong việc xin phép xây dựng các công trình phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, công trình phục vụ phát triển nông nghiệp.
Ngoài ra, tính ổn định quy hoạch chính sách trong từng lĩnh vực nông nghiệp chưa cao, việc quản lý thực hiện quy hoạch còn thiếu chặt chẽ, thiếu chế tài hiệu quả. Hạn chế này cần được giải quyết để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp trong thời gian tới. Ngân hàng Nhà nước cần đồng hành với doanh nghiệp nông nghiệp, có chính sách ưu đãi đặc biệt cho nông nghiệp xanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, để hóa giải những thách thức gặp phải, đóng góp vào sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam.
Tháo gỡ khó khăn cho các dự án cao tốc
Đại biểu Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) đồng tình với quyết tâm đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình đường bộ cao tốc, phấn đấu đến năm 2025 có trên 3.000 km, nhưng còn nhiều khó khăn bất cập về vật liệu đắp nền, nguy cơ ảnh hưởng đến tiến độ công trình trọng điểm quốc gia. Việc cấp phép khai thác vật liệu từ các địa phương còn mất nhiều thời gian, ngay cả những khu vực mỏ vật liệu quy hoạch được giao cho nhà thầu để thực hiện, nhưng thủ tục cấp phép khai thác cũng rườm rà rắc rối….
Do vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ cần quyết liệt hơn nữa trong việc chỉ đạo điều chỉnh các định mức phù hợp, rút gọn đơn giản thủ tục cấp phép khai thác mỏ vật liệu, thúc đẩy nhanh việc nghiên cứu đánh giá tác động, sớm đưa sử dụng các vật liệu mới thay thế để có thêm ngày càng nhiều kilomet đường bộ cao tốc.
Đại biểu Hoàng Đức Thắng cho rằng, một số đường bộ cao tốc chỉ có hai làn xe, chưa có hành lang pháp lý đầy đủ, chưa đồng bộ về hạ tầng phụ trợ, chưa đầu tư trạm dừng nghỉ, trạm xăng dầu, cùng các dịch vụ khác nên đường bộ cao tốc không hấp dẫn các phương tiện tham gia. Việc kết nối các trục đường ngang dọc với đường bộ cao cấp chưa phát huy bổ trợ lẫn nhau. Vì vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ cần kiểm tra, đánh giá sát đúng thực trạng nhưng bất cập hệ thống đường bộ cao tốc hiện có; khẩn trương cho mở rộng những tuyến đường chật hẹp hai làn xe; sớm ban hành các quy định chỉ đạo sát sao về quản lý, khai thác công trình nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.
Quản lý chặt chung cư mini
Cho rằng, vụ cháy chung cư mini tại quận Thanh Xuân, Hà Nội vừa qua như "giọt nước tràn ly" của những bất cập tích tụ lâu nay, song theo đại biểu Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị), thực tế nhà ở chung cư mini, nhà trọ bình dân tồn tại khách quan và là "cứu cánh" về chỗ ở cho công nhân, người lao động, sinh viên nghèo hiện nay. Do vậy, đại biểu Hoàng Đức Thắng đề nghị, phải giải bài toán thực tế hiện hữu này bằng những biện pháp kỹ thuật phù hợp để bảo đảm chặt chẽ trong quản lý, nhưng nếu “siết chặt” quá mức cần thiết thì sẽ đẩy người lao động, sinh viên nghèo vào tình trạng khó khăn về chỗ ở.
Thời gian qua, chúng ta đã cố gắng thiết kế nhiều chính sách hấp dẫn, hỗ trợ các nhà đầu tư, các nhà dự án nhà ở xã hội nhưng đến nay vẫn rất ít doanh nghiệp mặn mà hoặc dù có nhưng vẫn còn hàng nghìn căn hộ không ai thuê, mua. Phải chăng vì những căn hộ này vẫn còn quá xa vời so với khả năng tài chính của người dân thu nhập thấp hoặc người đủ điều kiện mua thì chưa thực sự mặn mà bởi mức giá chưa phù hợp, đặc biệt là vướng mắc quá nhiều thủ tục hành chính hoặc việc lựa chọn xây dựng vị trí không phù hợp nhu cầu.
Cũng theo đại biểu Hoàng Đức Thắng, sự tồn tại của “cả núi” thủ tục, “cả rừng” quy định hành chính cùng với những rủi ro pháp lý khác là nguyên nhân căn bản làm nản lòng các nhà đầu tư. Do vậy, “cần tháo gỡ ngay nút thắt điểm nhấn này thì nguồn lực xã hội mới được giải phóng, nhiều doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở xã hội.
Tranh luận với đại biểu Hoàng Đức Thắng, đại biểu Leo Thị Lịch (Bắc Giang) cho rằng, việc tạo điều kiện cho người thu nhập thấp có chỗ ở để học tập và lao động là rất cần thiết, nhưng không vì thế mà buông lỏng công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị khu nhà ở, nhà trọ và khu chung cư nếu không bảo đảm an toàn đối với người lao động có thu nhập thấp. Việc cấp phép sai, không đúng quy định cần phải xử lý nghiêm minh bởi có thể gây ra nguy hiểm đến tính mạng con người.
Cùng quan điểm này,đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) chỉ rõ, thực trạng pháp luật, quy định của pháp luật hiện hành về loại hình nhà ở chung cư mini rất lỏng lẻo. Tại Khoản 2, Điều 46 của Luật Nhà ở hiện hành không quy định rõ về tiêu chuẩn, quy chuẩn cũng như yêu cầu quản lý, thậm chí là định danh cũng không thật sự rõ ràng. Điều này dẫn đến thiếu một hành lang pháp lý phù hợp, gây lúng túng trong quản lý, gây áp lực cho hạ tầng đô thị và đặc biệt là tiềm ẩn nguy cơ cao đối với sự an toàn của người dân.
Bên cạnh đó, theo quy định hiện hành thì một cá nhân hoặc hộ gia đình có thể đứng ra xây dựng chung cư mini để bán nhưng không bị khống chế về số lượng mà chỉ bị khống chế về chiều cao và thủ tục chỉ cần xin cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ. Trong khi đó, yêu cầu về kỹ thuật, độ an toàn đối với các chung cư dù lớn hay nhỏ cũng đều quan trọng bởi liên quan đến sinh mệnh của nhiều người.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy nêu thực tế hiện nay, sự ra đời của các chung cư mini thời gian vừa qua đã đáp ứng nhu cầu của nhiều người dân có mức thu nhập trung bình thấp để có chỗ ở ổn định lao động, làm việc và học tập. Tuy nhiên, các chung cư mini có sự gia tăng nhanh chóng và điều đáng nói là hầu hết được xây dựng trên diện tích đất nhỏ hẹp, nằm sâu trong ngõ hẹp, nơi tập trung đông đúc dân cư và tiềm ẩn nguy cơ cao về an toàn cháy nổ. Thêm vào đó, tình trạng phạt cho tồn tại hoặc cưỡng chế ở trên văn bản cũng đã diễn ra trong một thời gian dài đối với nhiều công trình xây dựng sai phạm mà chưa có giải pháp triệt để. Ngoài ra, việc xử lý các chung cư mini không phải là dễ dàng, bởi đây đang là nơi ăn chốn ở của hàng trăm nghìn con người, nhiều tòa nhà đã bán hết và chủ đầu tư cũng rời khỏi từ lâu.
Do đó, đại biểu Nguyễn Thị Thủy thể hiện sự thống nhất cao với ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ về nhu cầu thực tế của người dân cần phải được bảo đảm nhưng dứt khoát không hợp thức hóa những sai phạm của chung cư mini trong Luật Nhà ở. Theo đó, vừa phải quy định chặt chẽ đối với loại hình nhà ở này, vừa phải có điều khoản chuyển tiếp để bảo đảm ổn định cuộc sống và an toàn tính mạng cho người dân.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy kiến nghị, Chính phủ tiếp tục triển khai những giải pháp ưu đãi để khơi thông nguồn cung nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá bình dân để giải quyết gốc rễ vấn đề nơi ở an toàn cho người có thu nhập thấp. Chỉ đạo các cơ quan đang tiến hành thanh tra, kiểm tra các chung cư mini cần phải hướng dẫn kịp thời cho người dân để có những giải pháp phòng ngừa an toàn cháy, nổ. Và trong Nghị quyết của kỳ họp lần này thì có nội dung yêu cầu về bảo đảm an toàn cháy, nổ nói chung, trong đó có an toàn cháy nổ đối với các chung cư mini đang hiện hữu.
Khắc phục tâm lý sợ sai
Đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam) đặt vấn đề, tại sao trong triển khai thực hiện còn vướng mắc nhiều, nhất là đầu tư công, cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, không dám làm.
Đại biểu đánh giá cao kết quả rà soát hệ thống văn bản pháp luật, nhưng một vấn đề là cách hiểu luật. Hiện nay chính sách, pháp luật đưa ra nhưng cách hiểu luật có những vấn đề chưa thực sự thống nhất, nên cán bộ khi thực hiện hiểu luật thế này, khi kiểm tra, giám sát, thanh tra lại hiểu theo cách khác.
Đại biểu dẫn ví dụ về xác định giá trị đất đai trong các vụ việc sai phạm, có trường hợp xác định giá trị ở thời điểm khởi tố vụ án, nhưng cũng có quan điểm cần xác định thất thoát tại thời điểm xảy ra vụ việc. Chánh án TAND tối cao cũng từng trả lời tại Quốc hội rằng xác định thiệt hại tại thời điểm xảy ra vụ việc, nhưng có vụ xác định tại thời điểm khởi tố và “sau mấy năm giá trị đất đã khác.
Có vụ án lúc đầu xác định thiệt hại 4 nghìn tỷ đồng, sau đó còn hơn 1 nghìn tỷ đồng. Có vụ ở TPHCM ban đầu hơn 1 nghìn tỷ đồng nhưng về sau còn hơn 200 tỷ đồng. Việc xác định giá trị tại thời điểm nào cũng là một trong những nguyên nhân, yếu tố làm cho cán bộ sợ, không dám làm. Đại biểu đề nghị khi rà soát đánh giá văn bản pháp luật có chồng chéo, bất cập hay không cần làm rõ câu chuyện làm sao để cách hiểu thống nhất.
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) đề nghị Chính phủ nghiên cứu làm rõ hơn nguyên nhân chủ quan tác động đến hạn chế, yếu kém, bởi yếu tố con người là quan trọng nhất. Đây là nguyên nhân căn cơ để đưa ra các cái giải pháp khắc phục hạn chế và nâng cao chất lượng thực thi nhiệm vụ công vụ của cán bộ công chức, viên chức.
Liên quan đến nâng cao chất lượng bộ máy nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, đại biểu rất mừng vì thời gian qua Chính phủ đã ban hành Nghị định 73 về khuyến khích bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung. Tuy nhiên, đây là nghị định, không thể thay thế điều chỉnh các quy định của luật. Vì vậy, đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm nghiên cứu sửa đổi pháp luật, trong đó có Luật Công chức và Luật Viên chức.
Quan tâm tới giáo dục đào tạo
Đại biểu Vương Quốc Thắng (Quảng Nam) nêu rõ, đại học có vai trò rất lớn trong việc nghiên cứu, xây dựng thể chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, giữ gìn và lan tỏa văn hóa, thúc đẩy quốc gia đổi mới sáng tạo. Để đại học thực hiện được sứ mệnh này cần tiếp tục dành sự quan tâm lớn hơn cho đại học. Trong đó, chính sách phát huy tự chủ đại học, phát huy vai trò của Hội đồng trường gắn với đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục cần được đặc biệt quan tâm.
Đại biểu Hà Ánh Phượng (Phú Thọ) nêu, thực tế qua 10 năm thực hiện chế độ tiền lương, mức thu nhập của nhà giáo vẫn thấp, thậm chí có nhóm nhà giáo không đủ trang trải cuộc sống của gia đình. Nhiều người đã phải nghỉ chuyển việc hoặc là làm thêm, vì vậy dẫn đến tình trạng chưa tròn vai và chưa tâm huyết với nghề. Và hiện nay phụ cấp của họ rất thấp, thậm chí có những vị trí không được hưởng phụ cấp gì.
Vì vậy, đại biểu Hà Ánh Phượng đề nghị Quốc hội, Chính phủ trong cải cách tiền lương lần này cần quy định lương của giáo viên ở mức cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc theo vùng, đúng theo tinh thần Nghị quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng thời phải có giải pháp tăng lương và phụ cấp cho nhân viên trường học để họ yên tâm công tác, cống hiến với nghề, đáp ứng yêu cầu dạy và học trong giai đoạn hiện nay.
Đại biểu cũng bày tỏ băn khoăn làm thế nào để đạt kỳ vọng từ năm 2024 - 2030 Việt Nam đạt khoảng 50.000 đến 100.000 nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn. Đại biểu cho rằng, việc này rất khó thực hiện và băn khoăn Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ làm như thế nào để hiện thực hóa được điều này.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, về việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn, ngành giáo dục đào tạo đã nhận thức rõ được trọng trách sứ mệnh của mình trong lĩnh vực này. Nhận chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lên kế hoạch triển khai nhiệm vụ của, 50 nghìn đến 100 nghìn nhân lực cần có cho ngành bán dẫn có thể chia thành nhiều nhóm chuyên môn với trình độ, yêu cầu khác nhau, hiện đang có ưu tiên cho nhóm nhân lực trong lĩnh vực thiết kế vi mạch bán dẫn.
Theo Bộ trưởng, hiện nay có 35 cơ sở giáo dục đào tạo đại học của Việt Nam đang trực tiếp đào tạo lĩnh vực trực tiếp, hoặc gần với ngành này. Các nhân lực ngành công nghệ thông tin, điện tử, điện lạnh thì có thể tiến hành bổ túc, chuyển đổi để bổ sung thành nhân lực ngành bán dẫn. Các trường cũng đã tổ chức mạng lưới để cùng chia sẻ kinh nghiệm thiết kế chương trình, tăng cường điều kiện, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất để đáp ứng yêu cầu đào tạo.
Bộ trưởng nêu rõ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã liên kết, hợp tác chặt chẽ với các tập đoàn công nghệ thông tin toàn cầu để nắm bắt chính xác con số nhân lực cần thiết cho ngành bán dẫn. Trong năm 2024, sẽ tuyển sinh đào tạo trên 1000 nhân lực trực tiếp trong lĩnh vực thiết kế vi mạch bán dẫn, và các lĩnh vực liên quan sẽ tuyển trên 7000 học viên. Các con số tuyển sinh sẽ tăng dần theo từng năm để đáp ứng yêu cầu nhân lực ngành bán dẫn theo đúng kế hoạch đặt ra. Bộ trưởng đề nghị Quốc hội, Chính phủ đẩy mạnh đầu tư để có đủ điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo trong ngành quan trọng này.
Về vấn đề thừa, thiếu giáo viên, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Nội vụ đưa ra chỉ tiêu tuyển giáo viên cho các tỉnh, tuy nhiên, theo thống kê, các tỉnh vẫn còn lại 64 nghìn chỉ tiêu chưa dùng, vì nhiều lý do khác nhau. Thậm chí, ở một số địa phương, không có nguồn tuyển để tuyển giáo viên theo đúng chỉ tiêu. Bộ trưởng cho rằng, cần sớm có những điều chỉnh về lương, chế độ, chính sách, nhà ở công vụ, phụ cấp ưu đãi, thực hiện các giải pháp khác một cách đồng bộ để nâng cao đời sống nhà giáo, góp phần thu hút nguồn nhân lực vào ngành giáo dục và đào tạo.
Ngoài ra, về vấn đề sách giáo khoa, Bộ trưởng cho rằng, vừa qua, Đoàn giám sát của Quốc hội đã ghi nhận hệ thống sách giáo khoa cơ bản được biên soạn, phê duyệt, phát hành cơ bản đúng tiến độ, đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Nội dung sách giáo khoa bám sát yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục… Bộ trưởng cho biết, đây là sự ghi nhận đối với toàn ngành giáo dục, đội ngũ giáo viên, những người tham gia soạn sách. Về tài chính chi cho giáo dục, con số đưa ra là tính cả chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển.
Về việc soạn sách giáo khoa, Bộ trưởng cho rằng, từ nay đến năm 2024, việc quan trọng nhất cần làm là thẩm định chất lượng các sách giáo khoa lớp 5, lớp 9, lớp 12 cho thật tốt, đảm bảo đủ sách giáo khoa trước năm học mới. Về vấn đề được giao, Bộ sẽ có đánh giá tổng thể, sâu sắc về vấn đề này và sẽ có đề đạt phương án với Quốc hội./.
Hồng Thanh
22:48 23/11/2024
14:30 23/11/2024