16:19 30/10/2023 Sáng 30-10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, dưới sự điều hành của Thượng tướng Trần Quang Phương, Phó chủ tịch Quốc hội, Quốc hội tiến hành giám sát tối cao việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Chương trình đạt nhiều kết quả
Tại phiên họp, Quốc hội nghe Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Phó Trưởng Đoàn thường trực Đoàn giám sát của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm báo cáo tóm tắt kết quả giám sát “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Theo đó, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc nêu rõ: đây là lần đầu tiên Quốc hội giám sát giữa kỳ, đồng thời đối với 3 Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, có phạm vi rộng, cùng với những yêu cầu đổi mới, Đoàn giám sát đã giải quyết nhiều nhiệm vụ, khối lượng công việc lớn với cách tiếp cận và cách làm mới phù hợp. Việc xác định nội dung trọng tâm là giám sát, đánh giá tiến trình chính sách và công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện là hướng đi đúng đắn, nhất là trong bối cảnh các Chương trình đang bị chậm tiến độ theo mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Đoàn giám sát đã tiến hành giám sát trực tiếp Chính phủ, 11 bộ, ngành và 15 tỉnh đại diện cho các vùng, miền và mức độ thụ hưởng các chương trình. Qua giám sát cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội và sự quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, kế thừa và phát huy giá trị, thành tựu của giai đoạn trước, kết quả triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 bước đầu đạt được một số kết quả tích cực, bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vùng nông thôn, miền núi được cải thiện.
Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được Quốc hội thông qua chủ trương tại Nghị quyết số 25/2021/QH15, có tổng kinh phí tối thiểu là 196.332 tỷ đồng. Ngoài chính sách chung, chương trình còn có 6 chuyên đề trọng tâm và thực hiện trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố cả nước.
Kế thừa và phát huy kết quả các giai đoạn trước, phong trào xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu: “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”. Tổ chức bộ máy thực hiện Chương trình nông thôn mới được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương. Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn đảm bảo nguyên tắc và đúng theo quy định. Tính đến 30-6-2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Về Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội, có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Chương trình gồm 7 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn cả nước.
Kết quả triển khai thực hiện Chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu “Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”; tuân thủ các nguyên tắc, giải pháp theo Nghị quyết 24. Nhiều địa phương có mô hình hay, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện. Đến tháng 9.2022, đây là Chương trình đầu tiên trong 3 Chương trình MTQG đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện ở cấp Trung ương. Chương trình đã thực hiện cơ bản đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số hằng năm theo Nghị quyết 24 đề ra.
Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được Quốc hội phê duyệt Chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 120/2020/QH14, có kinh phí tối thiểu làm tròn là 137.664 tỷ đồng, gồm 10 dự án, 14 Tiểu dự án thực hiện trên địa bàn 49 tỉnh.
Trong thời gian qua, quá trình triển khai thực hiện đã bám sát mục tiêu tổng quát của Chương trình là “Giảm nghèo nhanh, bền vững, giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn, sắp xếp ổn định dân cư, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thu hẹp dần khoảng cách mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước...”. Chương trình thực hiện đã tích hợp trên 118 văn bản chính sách dân tộc ở giai đoạn trước, do đó bước đầu khắc phục được tình trạng manh mún, dàn trải để tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp thiết về kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đặc biệt khó khăn.
Đến tháng 6-2023, các văn bản chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện Chương trình cơ bản đã hoàn thành với khối lượng khá lớn, các bộ, ngành Trung ương đã ban hành khoảng 58 văn bản, ở mỗi địa phương ban hành từ 40-50 văn bản liên quan. Vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ hết cho các địa phương, đảm bảo theo quy định hiện hành. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện, nhưng theo Báo cáo của Chính phủ tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3.4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao.
7 hạn chế
Đoàn giám sát của Quốc hội cũng chỉ rõ 7 hạn chế, tồn tại trong thực hiện 3 chương trình.
Một là, các cơ quan bộ, ngành liên quan còn hạn chế trong quản lý và tổ chức thực hiện các Chương trình, nhất là việc chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền quản lý, nội dung chưa rõ ràng , khó thực hiện, có nội dung trích dẫn dẫn đến nhiều văn bản khác.
Hai là, Ban Chỉ đạo chung Chương trình các cấp tuy đã được kiện toàn, thành lập song cơ chế quản lý, chỉ đạo, lãnh đạo vẫn theo tính chất ngành dọc của từng cơ quan; hiệu quả phối hợp liên ngành (theo chiều ngang) chưa thật sự chuyển biến rõ nét, nhất là giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo và phối hợp giải quyết những công việc liên quan đến quản lý và tổ chức thực hiện các Chương trình.
Ba là, còn có sự chồng lấn về địa bàn, nội dung thực hiện Chương trình (nhất là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình dân tộc) ở các tỉnh vùng dân tộc thiểu số. Kết quả giảm nghèo chưa đạt được mục tiêu đa chiều, chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; đời sống của một bộ phận người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai còn nhiều khó khăn; chênh lệch về thu nhập, mức độ giảm nghèo và khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn.
Bốn là, nguồn vốn bố trí chưa tương xứng so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Việc lập kế hoạch vốn, phân bổ vốn, giao vốn ngân sách trung ương chậm, đến tháng 5.2022 Chính phủ mới trình Quốc hội phân bổ vốn các Chương trình. Việc lập kế hoạch xác định nhu cầu vốn, đối tượng thực hiện dự án, tiểu dự án của các địa phương, công tác thẩm định của các bộ ngành chưa sát thực tế giao vốn sự nghiệp chưa có sự thống nhất.
Năm là, tiến độ giải ngân vốn ngân sách trung ương cả 3 Chương trình còn chậm, nhất là vốn sự nghiệp. Đến 31.1.2023 vốn năm 2022 giải ngân chỉ đạt 42,49% kế hoạch (vốn đầu tư phát triển đạt 54% kế hoạch, vốn sự nghiệp chỉ đạt 7,82% kế hoạch). Khả năng hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn ngân sách trung ương đến năm 2025 là rất khó khăn.
Sáu là, việc nắm bắt các vấn đề, hướng dẫn, hỗ trợ, tháo gỡ các vướng mắc trong triển khai thực hiện Chương trình chưa kịp thời. Ở cấp xã, huyện rất lúng túng trong việc thẩm định giá, quy trình thực hiện đấu thầu, phê duyệt thầu, lựa chọn thầu; điều chỉnh danh mục, quy mô, đối tượng thụ hưởng… với các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất theo cộng đồng và liên kết chuỗi giá trị. Các bộ, ngành Trung ương chưa kịp thời tổng hợp được kết quả và công khai minh bạch việc trả lời kiến nghị, khó khăn vướng mắc của địa phương.
Bảy là, tình trạng cát cứ, manh mún, phân tán, làm cho các cơ chế lồng ghép, phân cấp, phân quyền, cơ chế đặc thù theo chủ trương của Đảng và Nhà nước không được phát huy hiệu quả trên thực tế, làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội, các Chương trình chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Đoàn giám sát nêu rõ các tồn tại, hạn chế, vướng mắc chung và của từng Chương trình như trên, trước hết trách nhiệm thuộc về Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương, mà chủ yếu là các cơ quan chủ chương trình (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Ủy ban Dân tộc), các bộ, ngành liên quan (nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính). Bên cạnh đó cũng có trách nhiệm thẩm tra, giám sát, đôn đốc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các Chương trình.
Tập trung giải quyết dứt điểm khó khăn về đất ở, nhà ở, đất sản xuất
Qua giám sát, Đoàn giám sát của Quốc hội đưa ra 4 bài học kinh nghiệm; đồng thời nêu một số kiến nghị cụ thể đối với Quốc hội, đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, đối với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, đối với địa phương.
Trong đó, với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn giám sát đề nghị, cần chỉ đạo Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội theo chức năng nhiệm vụ tăng cường giám sát việc triển khai thực hiện các Chương trình Mục tiêu quốc gia ở các cấp. Cân đối, bố trí đủ ngân sách theo đúng các Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia; cho phép kéo dài nguồn vốn được phân bổ năm 2023 chưa được giải ngân hết chuyển sang tiếp tục thực hiện đến 31-12-2024.
Đoàn giám sát cũng đề nghị Quốc hội giao Chính phủ hoàn thiện hồ sơ, tiếp thu kiến nghị của Đoàn Giám sát trình Quốc hội tại Kỳ họp gần nhất ban hành Nghị quyết theo quy trình rút gọn về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025.
Đối với Chính phủ, Đoàn giám sát đề nghị, rà soát, sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách chưa phù hợp, khó thực hiện thuộc thẩm quyền của Chính phủ để triển khai đầy đủ cơ chế, nguyên tắc, nội dung chính sách trong các Nghị quyết của Quốc hội về phê duyệt Chủ trương đầu tư thực hiện các Chương trình; rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chí, chỉ tiêu trong bộ tiêu chí nông thôn mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tập trung giải quyết dứt điểm những khó khăn, bức xúc về đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Đồng thời, Chính phủ cũng cần, sớm rà soát đánh giá, sửa đổi, bổ sung các chương trình, chính sách về hỗ trợ cho các xã diện đặc biệt khó khăn, huyện nghèo, hộ nghèo, cận nghèo các đối tượng yếu thế ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số; các chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ nhà ở khu vực nông thôn, bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23-6-2021 của Ban Bí thư. Có cơ chế giao chỉ tiêu thực hiện các mục tiêu giảm nghèo, thoát nghèo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi...
Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cần rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện
Đa số đại biểu cho rằng, kết quả giám sát “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” đã đánh giá một cách khách quan, toàn diện các kết quả đã đạt được.
Đồng thời, chỉ rõ được những khó khăn, tồn tại, vướng mắc, phân tích kỹ các nguyên nhân, chỉ rõ được trách nhiệm của các cơ quan có liên quan và có những kiến nghị rất cụ thể với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan có liên quan.
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận (Yên Bái) lưu ý, qua giám sát, khảo sát cho thấy, nhiều văn bản hướng dẫn còn chung chung, chưa rõ ràng, khó hiểu, khó thực hiện, không phù hợp. Thực tế, việc dẫn chiếu quá nhiều trong một văn bản dẫn đến khó khăn, lúng túng cho cán bộ và người dân, đặc biệt là cán bộ cấp xã ở các địa phương miền núi, vùng cao, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, hiện nay cũng đang thiếu những cơ chế, chính sách để khuyến khích làm giàu cho nhóm đối tượng là những người sản xuất kinh doanh giỏi, có khả năng tạo ra việc làm, thu nhập cho người nghèo và cộng đồng.
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận đề nghị, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn theo hướng chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ áp dụng trong thực tiễn, giải thích từ ngữ đầy đủ, hạn chế tối đa việc dẫn chiếu quá nhiều các văn bản trong cùng một nội dung. Đồng thời, bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng việc phối hợp lồng ghép giữa các chương trình mục tiêu quốc gia và giữa các chương trình mục tiêu quốc gia với các chương trình, dự án khác để thuận lợi cho quá trình giải ngân các nguồn vốn, hạn chế việc chồng chéo, trùng lắp về địa bàn, đối tượng, nguồn vốn gây thất thoát, lãng phí, làm giảm hiệu quả của các chương trình.
Đề xuất kéo dài thời gian giải ngân
Một vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm là việc giải ngân vốn cho 3 Chương trình mục tiêu quốc gia. Theo một số ý kiến, công tác lập kế hoạch và phân bổ vốn các chương trình vừa qua còn có những bất cập, gây khăn cho địa phương trong tổ chức thực hiện.
Đại biểu Phạm Thị Kiều (Đắk Nông) cho rằng, nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách Trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao gây khó khăn cho một số địa phương, nhất là các tỉnh nghèo. Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội cho phép kéo dài thời hạn giải ngân vốn của giai đoạn 2021- 2025 (kể cả nguồn vốn năm 2022 kéo dài sang năm 2023) đến hết giai đoạn năm 2025. Bởi, nếu không cho chuyển thì các dự án, nội dung đã lập để thực hiện thuộc kế hoạch vốn năm 2021 và 2022 không được kéo dài sang năm 2024 và đến hết giai đoạn thì lại phải điều chỉnh dự án, dẫn đến dự án thực hiện nửa chừng, không đồng bộ và không thể phát huy hiệu quả. Cùng với đó, cần ban hành quy định cho phép địa phương được chuyển từ nguồn vốn sự nghiệp sang nguồn vốn đầu tư, phân bổ theo các lĩnh vực chi (kinh tế, văn hóa, xã hội, tuyên truyền,...) theo nhu cầu sử dụng vốn.
Đại biểu Phạm Thị Kiều cũng nêu thực tế, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia có nhiều nội dung trùng lắp với nhau (ví dụ đào tạo nghề, hỗ trợ sinh kế…) dẫn đến chồng chéo, không giải ngân được nguồn vốn, vì mỗi đối tượng chỉ được thụ hưởng ở một Chương trình. Mặt khác, hiện nay cơ sở hạ tầng khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, cần vốn đầu tư. Nếu không cho phép địa phương chuyển nguồn vốn sự nghiệp (nếu không sử dụng hết) sang vốn đầu tư thì sẽ không sử dụng hết vốn.
Việc Trung ương giao chi tiết vốn sự nghiệp theo từng lĩnh vực, theo dự án, tiểu dự án thành phần là đúng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, bảo đảm thuận lợi cho công tác thống kê, kiểm soát theo định mức chi tiêu ngân sách. Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận, cách làm này rất khó thực hiện trong thực tế, không tạo sự chủ động, linh hoạt cho các địa phương, khó triển khai cơ chế lồng ghép, tích hợp, điều chuyển giữa các dự án, tiểu dự án khi tiến độ thực hiện không đảm bảo không hiệu quả và không còn đối tượng thực hiện.
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận đề nghị, Chính phủ xem xét giao chung vốn sự nghiệp thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia hàng năm trên cơ sở nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đã được ban hành, không thực hiện giao cho lĩnh vực theo dự án, tiểu dự án thành phần như hiện nay để được tạo sự chủ động, linh hoạt cho các địa phương. Nghiên cứu có cơ chế đặc thù, ưu đãi trong tổ chức thực hiện các chương trình cho các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn theo hướng nâng tỷ lệ hỗ trợ cao hơn để các địa phương này có thêm nguồn lực trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và các chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Khơi dậy ý thức muốn thoát nghèo của người dân
Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 24/2021/QH15, có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Chương trình gồm 7 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn cả nước (có 48 tỉnh sử dụng vốn ngân sách Nhà nước). Đây cũng là một nội dung được các đại biểu Quốc hội quan tâm trong thảo luận tại hội trường.
Trong giai đoạn 2021-2025, mục tiêu về giảm nghèo cao hơn so với các giai đoạn trước, gắn với các mục tiêu phát triển bền vững nhưng địa bàn, đối tượng thực hiện Chương trình lại tập trung vào các “lõi nghèo” khó khăn nhất của cả nước. Do vậy, các đại biểu Quốc hội đều ghi nhận và đánh giá cao kết quả triển khai thực hiện Chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu “Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”. Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,17% và ước thực hiện năm 2023 giảm 1,1%, tỷ lệ giảm nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%, đạt và vượt mục tiêu được Nghị quyết Đại hội Đảng 13, Nghị quyết của Quốc hội đề ra.
Tuy nhiên, đại biểu Trần Quang Minh (Quảng Bình) cho rằng, cần đánh giá đúng thực trạng việc giảm nghèo hiện nay đã thực chất hay chưa, vì nhiều địa phương cũng vì chỉ tiêu phấn đấu theo nghị quyết, theo kế hoạch hàng năm… nên đã vận động, thậm chí có nhiều cách làm với mục tiêu là giảm được số lượng trong khi chất lượng giảm nghèo và hộ thoát nghèo một cách bền vững chưa được đánh giá thực chất.
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu thoát nghèo bền vững, đại biểu Trần Quang Minh cho rằng, cần phát huy kênh bảo trợ xã hội với những hỗ trợ căn bản nhất để đưa những người nghèo không có khả năng thoát nghèo vào diện này. Vì cứ để trong đối tượng hộ nghèo sẽ làm khó trong quá trình thực thi, thậm chí xảy ra tình trạng miễn cưỡng, hình thức khi xét ra khỏi hộ nghèo trong khi thực sự chưa thoát được nghèo chứ chưa nói đến thoát nghèo một cách bền vững.
Đồng thời, cần tập trung chỉ đạo nhiều hơn nữa công tác tuyên truyền đến tận người dân, nhất là người nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bởi vì khi người dân nắm được, hiểu được và đồng tình với chủ trương chính sách thì tâm lý trông chờ, ỷ lại sẽ ít đi, hiệu quả mang lại mới thực sự bền vững và lâu dài.
Cùng quan điểm này, đại biểu Đỗ Chí Nghĩa (Phú Yên) cho rằng, giảm nghèo bền vững là một thách thức rất lớn. Điều quan trọng là ý chí vươn lên, tự lực cánh sinh để thoát nghèo, ứng phó với mọi hoàn cảnh có thể xảy đến. Sự hỗ trợ của cộng đồng, các chương trình, các chính sách của nhà nước chỉ có ý nghĩa khi các chủ thể chính có ý thức vươn lên. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp chỉ mong được tiếp tục trong diện hộ nghèo để tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách hỗ trợ, ưu tiên giảm nghèo. Do đó, đại biểu Đỗ Chí Nghĩa cho rằng, cần có sự thay đổi cơ bản về nhận thức để có được chuyển biến thực chất trong vấn đề này.
Bảo đảm kết quả dài hơi, tính bền vững của chương trình
Theo đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam), nguyên nhân căn cơ của tình trạng chưa muốn thoát nghèo là do cách làm và chất lượng của các chương trình chưa có tính bền vững cao trong cả trước mắt và lâu dài. Do đó, người dân cảm thấy chưa yên tâm khi thoát nghèo, hết chương trình, hết dự án thì liệu có “nghèo lại hoàn nghèo”?
Điều cần quan tâm là cách làm và chất lượng của chương trình giảm nghèo bền vững nói riêng, cũng như cả trong 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Các chương trình phải mang tính bền vững cao thì lúc bấy giờ tự người dân sẽ nhận thức được và không ai muốn quay lại nghèo.
Về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) nhất trí với việc Đoàn giám sát chỉ ra những nguyên nhân chủ quan dẫn tới những hạn chế của Chương trình gắn với trách nhiệm cụ thể của từng bộ, ngành. Tuy nhiên, đại biểu nhận thấy, đánh giá của Đoàn giám sát vẫn có lúc còn chung chung khi chỉ ra trách nhiệm và những hạn chế tương đối giống nhau giữa Chính phủ và các bộ, ngành. Do đó, đại biểu đề nghị, rà soát lại phần đánh giá để chỉnh sửa, bổ sung sao cho cụ thể hóa trách nhiệm và tránh trùng lặp, chung chung.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga cũng đề nghị, trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi thời gian tới cần đặc biệt quan tâm hơn tới việc hoàn thiện cơ chế chính sách bởi hiện nay đang có quá nhiều điểm nghẽn về chính sách do không phù hợp thực tiễn, không thể triển khai được, thậm chí có những chính sách xung đột với nhau về quy định giữa bộ này với bộ khác mà trong báo cáo kết quả giám sát đã nêu rất chi tiết. Nếu không tháo gỡ ngay thì sẽ không thể tiến hành tiếp Chương trình và các giải pháp còn lại cũng không thể phát huy hiệu quả./.
Hồng Thanh
22:48 23/11/2024
14:30 23/11/2024