14:38 25/10/2021 Theo các kết quả nghiên cứu, nguồn lợi thủy sản vùng nước lợ ở ven biển, ven sông Hải Phòng, có những đặc trưng vượt trội nhờ tính đa dạng sinh học cao từ sự ưu đãi của thiên nhiên. Tuy nhiên những năm gần đây, sản lượng khai thác nguồn lợi này giảm sút rất mạnh, mà nguyên nhân được cho là môi trường tái tạo sinh trưởng bị tổn hại.
Vùng nước ngập lợ ven biển Hải Phòng
Ưu đãi từ thiên nhiên
Bờ biển Hải Phòng có chiều dài hơn 125 km, nơi có gần chục cửa sông lớn đổ ra từ đất liền, tạo một vùng lợ ven biển, ven sông gắn liền với các nguồn thủy sản mà nhiều vùng bờ khác trong cả nước không có.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu hải sản, quỹ đất ngập nước ven biển của Hải Phòng tới 24,58 nghìn héc-ta, bao gồm các vùng đất ngập triều với gần 20 nghìn hec-ta, ngoài ra, còn có các bãi bồi chắn ngoài cửa sông. Chưa kể tới 24 nghìn hec-ta mặt nước của những cửa sông, luồng lạch, tùng, áng, vùng, vịnh... mang lại lợi thế ưu đãi phát triển đa ngành, mà nuôi trồng, khai thác thủy sản chỉ là một ví dụ điển hình.
Điều quan trọng nhất, chính yếu tố địa hải chất này vốn dĩ đã tạo cho Hải Phòng một vùng bãi đẻ, bãi ương nuôi tự nhiên các loài thủy sản, có mật độ phân bố thuộc diện cao nhất của cả vùng duyên hải Bắc Bộ. Từ khi nhu cầu tiêu thụ nguồn lợi tăng cao, thì việc khai thác lợi thế vùng bờ và vùng nước ven đất liền được chú trọng nhiều hơn, với các dạng hình ươm thích ứng.
Do đặc thù địa lý, nếu như các vùng ven biển như Cát Hải, Hải An, Dương Kinh, Kiến Thụy chủ yếu được khoanh vùng nuôi trồng các loại tôm, cá, nhuyễn thể, rau câu... thì vùng bồi phía cửa sông Lạch Tray, Văn Úc và Thái Bình phần lớn được chia thầu, khai thác nguồn lợi tự nhiên, đáng kể nhất là các loại cá nước lợ, tôm trà, tôm rảo, các loại họ cua và rươi... và ươm nuôi nhuyễn thể khác.
Được thiên nhiên ưu đãi như vậy, nhưng dường như Hải Phòng chưa thực sự trở thành một thương hiệu lớn, với vai trò là một trung tâm khai thác, chế biến thủy sản ven bờ của khu vực. Trong khi đó, các kết quả nghiên cứu gần đây cũng như thực tế đã cảnh báo, nguồn lợi thủy sản vùng lợ của Hải Phòng đang ngày càng cạn kiệt, có rất nhiều nguyên nhân, nhưng tựu chung tất cả đều xuất nguồn từ yếu tố con người.
Đánh bắt thủy sản bằng “lờ bát quái” của ngư dân ven biển
Chẳng hạn việc sử dụng các công cụ, những sáng tạo mới để tăng sản lượng thể hiện tính vô trách nhiệm của người đánh bắt như dùng lưới vét mắt nhỏ, thuốc độc cyanua, kích điện, “lờ bát quái”… không những tận thu cả những sinh vật còn quá nhỏ, mà còn “triệt” luôn cả đường sinh nở.
Ở những vùng lợ cửa sông, diện tích bãi bồi bị chia nhỏ vô tội vạ, phục vụ cho các mục đích thuê thầu, còn ở các triền sông, triền biển, bãi cát bồi bị khai thác triệt để, cũng đã ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sinh sản tự nhiên của sinh vật nước.
Lẽ ra, khi nguồn lợi tự nhiên bị suy kiệt, thì giải pháp bù trừ sẽ được tính đến nhờ việc nuôi tái tạo, nhưng việc thuần hóa các loài thủy sản nước lợ hiện vẫn là việc rất khó, việc ươm tạo giống càng khó hơn. Vì theo những người có kinh nghiệm, hầu hết thủy sản vùng lợ đều có môi trường sống hết sức đặc biệt, để thích ứng với sự thay đổi liên tục của thủy nhưỡng, tùy theo độ mạn – lợ - ngọt.
Mặt khác, cũng hầu hết các loại thủy sản vùng lợ đều trưởng thành ở vùng lợ nhẹ, nhưng lại di cư sinh sản ở vùng nước mặn. Cá biệt có những loài môi trường sống hết sức bí ẩn như rươi hiện chưa rõ quy trình sinh trưởng, hoặc như tôm rảo lúc còn non sống ở mặt nước, nhưng thời kỳ tăng trưởng lại ở trong lòng đất.
Cùng với đó, quá trình phát triển các ngành kinh tế khác cũng đặt Hải Phòng vào một sự lựa chọn không dễ dàng. Chẳng hạn để có được các khu công nghiệp thì các quận huyện Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh, Cát Hải phải đánh đổi hàng nghìn héc-ta mặt nước, khiến thủy trường vùng lợ ngày càng bị thu hẹp.
Hướng nào cho sự bảo tồn bền vững
Những năm gần đây, công tác quản lý tài nguyên vùng bờ, vùng bồi ven sông ven biển Hải Phòng bộc lộ không ít bất cập. Những vụ việc gây mất an ninh trật tự trong việc tranh chấp bãi nuôi ngao, tranh chấp quyền khai thác mặt nước đã gây nhiều bức xúc trong dư luận.
Điều đáng nói, nhiều vụ việc không được giải quyết triệt để đã ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự của một số địa phương, như việc tranh chấp bãi nuôi thả ở Hải An, Kiến Thụy… hay việc tranh chấp mặt nước ở huyện Tiên Lãng đã từng được báo chí phản ánh.
Chưa kể đến những phát sinh hệ quả tranh chấp của các giao dịch ngoài luồng đối với đất bãi bồi ven sông, ven biển, bộc lộ nhiều vi phạm pháp luật về đất đai và đầu tư.
Ở một góc độ khác, vấn đề lớn nhất hiện nay mà nguồn lợi thủy sản vùng bờ Hải Phòng đang bị xâm hại có lẽ là ô nhiễm môi trường, nhất là khu vực các cửa sông có bị tác động từ nguồn dầu thải của các tàu ra vào cảng, nhiễm nguồn nước thải từ các khu công nghiệp.
Khai thác cát đã xâm hại nặng nề bãi đẻ của sinh vật nước vùng lợ
Cùng với đó là ô nhiễm đục nước, kết quả của nạn phá rừng phòng hộ và xói lở. Trong khi đó, việc quy hoạch vùng bờ chưa phát huy được hiệu quả, đang rất manh mún giữa các dự án đầy mâu thuẫn của công nghiệp – dịch vụ - thủy lợi – nông nghiệp và thủy sản. Đương nhiên, “trăm sông đều đổ ra biển”, ô nhiễm vũng bờ cũng chính là nguồn gây ô nhiễm cho cả vùng vịnh Bắc Bộ, ngư trường chính của Hải Phòng.
Như vậy có thể thấy, nguồn lợi thủy sản vùng bờ, vùng bồi Hải Phòng đang đứng trước những nguy cơ lớn, từ chính việc khai thác nội ngành đến các mâu thuẫn trong mục tiêu khai thác ngoại ngành khác, điều này đang đặt ra một bài toán nan giải giữa khai thác và bảo tồn.
Những năm gần đây, nội dung này đã được thành phố đánh giá sâu sắc, nhiều hạn chế đã được chỉ rõ, nhưng được nhắc đến nhiều nhất chính là việc quy hoạch không gian vùng nước, vùng bờ, vùng bồi. Mặc dù chưa phải chiến lược dài hạn và quy mô tổng thể, nhưng đây cũng là động thái rất có ý nghĩa, hướng tới lập lại trật tự trong lĩnh vực quản lý vùng bờ, vùng bồi ven sông ven biển.
Về lâu dài, nhiều ý kiến cho rằng thành phố cần xây dựng một chiến lược toàn diện hơn, từ quản lý khai thác nuôi trồng đến chế biến và tiêu thụ, hình thành một thương hiệu cho thủy sản nước lợ Hải Phòng.
Thực tế là, ngành thủy sản thành phố đến nay cơ bản vẫn chưa thoát khỏi hình bóng của một nghề thủ công, trình độ và quy mô sản xuất nhỏ, phát triển tự phát. Chính vì vậy, giải pháp đầu tiên là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, để cả hệ thống nhìn nhận tích cực hơn về sự cần thiết của bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản vùng bờ, để người dân tự giác chấp hành các quy định của Nhà nước.
Bên cạnh việc siết chặt quản lý sử dụng tài nguyên, cần có đánh giá đầy đủ về nguồn lợi tự nhiên của từng địa phương. Phải chú trọng hơn đến việc nghiên cứu xác định các bãi đẻ, mùa vụ sinh sản, từ đó xác định cơ cấu nghề nghiệp và định lượng, định hướng khai thác phù hợp theo mùa vụ, bao gồm cả việc quy định việc cấm đánh bắt trong mùa sinh sản, song song với các giải pháp quản lý và tổ chức sản xuất.
Nhưng điều cần thiết trước mắt, song song với các giải pháp bảo vệ môi trường mang tính vĩ mô, thì việc phân định giữa quy hoạch phát triển ngành thủy sản và các ngành kinh tế khác cũng cần được rõ nét, hạn chế thấp nhất mức độ ảnh hưởng gây tác hại lẫn nhau.
Đây sẽ là bước khởi đầu cho một giai đoạn mới, để Hải Phòng bảo đảm hài hòa giữa khai thác và bảo tồn nguồn lợi vùng bờ, vùng bồi, hướng tới phát triển bền vững.
Lê Minh Thắng