09:05 13/09/2019 Với những tài liệu và chứng cứ lịch sử, Việt Nam có đủ cơ sở để khẳng định: hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Chủ quyền đó cần phải được tôn trọng và thực thi theo luật pháp và tập quán quốc tế.
Bản đồ bờ biển Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do người Hà Lan vẽ năm 1754 (ảnh tư liệu)
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu vực biển có vị trí từ 15 độ 45 phút đến 17 độ 15 phút vĩ Bắc và 111 độ đến 113 độ kinh Đông, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi khoảng 190 km). Toàn thể quần đảo Hoàng Sa có diện tích khoảng 15.000 km vuông, gồm hơn 30 đảo nhỏ và những bãi đá nhô khỏi mặt nước.
Quần đảo Trường Sa nằm trong khu vực biển ở vị trí từ 6 độ 50 phút đến 12 độ vĩ Bắc và 111 độ 30 phút đến 117 độ 20 phút kinh Đông, cách đảo Phú Quý (Bình Thuận) khoảng 203 hải lý, cách Philippines khoảng 300 km và cách Trung Quốc khoảng 1.500 km. Toàn thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000 km vuông, gồm trên 100 đảo và những bãi đá nhô lên mặt biển, trong đó có khoảng 26 đảo hoặc đảo đá chìm.
Kể từ chế độ phong kiến đến khi Pháp rút khỏi Đông Dương, cho đến ngày miền Nam nước ta hoàn toàn thống nhất năm 1975, Nhà nước Việt Nam qua các thời đại đã tiến hành những hoạt động thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách thực sự và liên tục.
Cụ thể, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý vững chắc. Ít nhất từ thế kỷ 17, Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn là lãnh thổ vô chủ, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này hòa bình, liên tục và không phải gặp sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.
Tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới hiện còn giữ nhiều tư liệu, sách cổ, văn bản pháp lý của Nhà nước, bản đồ thể hiện việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các Châu bản triều Nguyễn là các văn bản hành chính chính thức của triều đình Nhà Nguyễn, là bằng chứng lịch sử khẳng định việc Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như hàng năm cử các đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ra hai quần đảo khai thác các tài nguyên sản vật trên biển và thu lượm hàng hóa trên các tàu bị đắm; đo đạc vẽ bản đồ; dựng bia, lập miếu, trồng cây, cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn...
Các hoạt động này được ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử như “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776), “Lịch triều Hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1821), “Đại Nam thực lục chính biên” (1844 - 1848), “Hoàng Việt dư địa chí” (1834).
Những tư liệu vừa mới phát hiện gần đây là những minh chứng hùng hồn về sự chiếm hữu liên tục và thật sự của nước ta đối với Hoàng Sa và Trường Sa (nguyên bản tờ Lệnh ngày 15-4-1834 của vua Minh Mạng điều động binh phu từ đảo Lý Sơn ra bảo vệ Hoàng Sa; nguyên bản tờ Tấu ngày 12/5/1932 lên vua Bảo Đại tặng thưởng Huân chương cho một binh sĩ đóng đồn phòng thủ Hoàng Sa). Ngoài ra, hoạt động của triều đình phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo cũng được nhắc đến trong các tác phẩm nước ngoài như “An Nam đại quốc họa đồ” (1838) và “Nhật ký Batavia” của Công ty Hà Lan Compagnie Hollandaise des Indes Orientales (1936).
Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền và quản lý hữu hiệu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối yêu sách của các nước khác đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp đã quy thuộc hai quần đảo vào các tỉnh đất liền, đặt quân đồn trú, xây cột mốc chủ quyền, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên hai quần đảo.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco tháng 9-1951. Đây là hội nghị giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ 2 với sự tham dự của 51 quốc gia. Với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã tham dự trên cương vị Trưởng phái đoàn quốc gia Việt Nam.
Ngày 7-9-1951, phát biểu tại Hội nghị Trưởng phái đoàn quốc gia Việt Nam, ông Trần Văn Hữu khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cả 50 quốc gia tham dự còn lại đều không phản đối Tuyên bố xác nhận chủ quyền đó của Phái đoàn Việt Nam. Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Pháp đã chuyển giao hoàn toàn quyền kiểm soát về quân sự và dân sự đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Sài Gòn.
Từ tháng 4-1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các hòn đảo trong quần đảo Trường Sa do Quân đội Sài Gòn đóng giữ. Tuy nhiên, trước đó vào tháng 1-1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời phía Trung Quốc đưa ra yêu sách phi lý về biển Đông, bao gồm cả chủ quyền hai quần đảo, làm gia tăng căng thẳng trên biển Đông.
(còn nữa)
Hoàng Minh
22:48 23/11/2024
14:30 23/11/2024